Nơi Bình Yên Ta…Viết…

Category Archives: Truyện Ngắn

SONY DSC
Tulip Châu Sa

Bên Em Mùa Thu Cuối
Part One

Gió thổi lá rơi, hoa rụng tơi bời. Rừng lá thấp vội vàng thay áo mới và gương mặt rừng thưa bắt đầu trở nên đỏ ửng thẹn thùng. Tín hiệu Hè đi Thu tới. Dường như Mùa Thu luôn là mùa được nhiều người yêu thích nhất dẫu cho ai nấy điều am tường Mùa Thu luôn mang đến cho nhân gian những câu chuyện buồn mà chẳng một ai hiểu nổi lý do. Mây cũng không ngoại lệ. Mùa Thu thường đem đến cho Nàng những sầu muộn buồn thương mà bản thân nàng cũng không lý giải được vì sao, song, chỉ chấp nhận cảm giác thực tế đó như một điều hiển nhiên.

Mây đang ngồi hình dung vào thời khắc của Mùa Thu đang chín là thời khắc tất cả mọi thứ trên đời cứ như thể vẻ đẹp hoàn mỹ của thiên nhiên đã được Đấng Tạo Hóa kết hợp lại từ những mùa trước đó để bây giờ Mùa Thu có nhiệm vụ làm vỡ òa vẻ đẹp cuối cùng của năm như một sự kiện trọng đại khắc ghi vào trái tim và linh hồn của những ai đang sống. Rồi khi thời khắc vỡ òa của Mùa Thu đã xảy ra thì không gian lập tức đổi thay. Trống trãi hơn, đất chín hơn và trở mùi hương thơm hơn. Mùi vị của nó không thua kém gì với mùi hương của Biển cạn rêu phong. Đất lại có vị đắng lẫn vị ngọt nên khi ta sờ vào đất hóa thành một thứ âm thanh thật tuyệt vời một lần cuối cùng, rồi thôi. Ẩn chứa sâu bên trong đất vẫn còn hơi ấm là xác của Lá Khô đang chồng chất lên nhau nên khi tay chạm vào ta linh cảm được bóng tối, hay một vật thể nào đó tựa như ngôi mộ trống đang được thiên nhiên khai sẵn để chôn cất Mùa Thu, đưa nó vào giấc ngủ lạnh căm trong suốt Mùa Đông tuyết giá sẽ đến… Đó, Mùa Thu xứ người.

Vào một mùa Thu như thế, nghĩa là lúc Mùa Thu đang chín ối khắp nơi, Mây một mình lang thang đến vùng rừng núi phía Đông Nam bang Illinois, Starved Rock. Mây đang ngồi trên một ngọn núi thấp và nghĩ buổi chiều Thu này là của riêng cô, mãi mãi. Nhưng không, chiều Thu đó nàng đã phải chia sẻ Vẻ Đẹp Cuối Cùng của Mùa Thu với một người.

(To be continued-Còn tiếp)


SONY DSC
Tulip Châu Sa

NHẦM
(Based On TRUE story)

NHAMHắn thường cho rằng tôi là người hiểu Hắn nhất.  Tật xấu của Hắn tôi gán hết cho Satan, và tha bổng cho Hắn, thường động viên Hắn chứ không xem Hắn là người xấu như những người ngoại đạo.  Hắn còn nịnh tôi khi Hắn quả quyết:

“Chúa cho Mây có một ta-lân để giúp hàn gắn những mối quan hệ vợ chồng có nguy cơ tan vỡ”.

Tôi hỏi Hắn:

“Sao cậu dám nghĩ thế?  Ta-lân của Chúa không thể tự nhận hay tự gán cho ai cũng được đâu nhé!.”

Hắn chắc nịch:

“Thu Hồng nói với tui như vậy, nhờ Mây phân tích, chỉ ra cho cả hai người họ thấy những khuyết điểm và ưu điểm của nhau, cả hai đang trông đợi ở nhau điều gì, nhờ làm theo những lời khuyên của Mây mà vợ chồng nó mới không rã đám.”

Tôi…nói thầm trong bụng, “nếu được như cô ấy phán xét thì tốt”, và tặng Hắn cái nhìn hoài nghi, rồi tôi nói lớn với Hắn:

“Tôi không tin điều cô Hồng nói”.

Tôi không buồn cho Hắn biết, sau khi…khen tôi với Hắn, nghĩa là sau khi thoát được tai kiếp (mà theo Hắn là nhờ tôi), cái cô Hồng đó đã từng nghe lời chứng dối của Satan xúi giục mà đi nói hành, nói xấu tôi sau lưng và đánh gục tôi trước bàn dân thiên hạ, hạ nhục tôi làm hả hê lòng dạ Satan.  Nỗi đau chín tím cả người đã dần hồi phục, giờ Hắn nhắc, nó trở về nguyên vẹn như tế bào ung thư di căn đang phát tán khắp trong tim và toàn thân tôi.  Hắn nhìn tôi nghĩ ngợi như một gã khờ, gương mặt đầy những dấu chấm hỏi.  Hắn lại than van:

“Chẳng hiểu sao vợ tui cứ nhắc lại việc lỗi lầm của tui thế nhỉ, cô ta làm sai thì không chịu nhận mình làm sai là sao ý nhỉ?”

Lần này, tôi trừng Hắn:

“Cậu hỏi tôi ý à?”.

Hắn gọn lỏn:

“Phải!”

Tôi tính làm ngơ như Hắn chẳng phải đang hỏi mình,  trong đầu tôi lúc này, đang nghĩ đến nhiều việc khiến tim tôi làm việc yếu đi, nhưng sự im lặng của tôi khiến Hắn nóng ruột:

“Mây là phụ nữ, có biết vì sao không?”.

Tôi cáu:

“Thừa biết”.

Không đợi Hắn năn nỉ hay van xin, tôi tra vấn Hắn:

“Vợ cậu ngày lấy nhau có như thế không!?”

Hắn ra bề thông minh:

“Không! không hề, cô ấy rất đáng yêu, nếu biết cô ta như bây giờ, tôi điên dại gì cưới cô ấy”.

Tôi lạnh lùng:

“Tôi hiểu rồi”

Tôi đưa mắt nhìn xa xôi nghĩ ngợi.  Hắn còn tốt bụng hơn nhiều thằng đàn ông khác.  Có thằng chỉ biết sống cho cái bản thân hư hỏng của mình, cứ bảo vệ sự hư hỏng của mình bằng cách gán hết tội cho vợ, đại loại như hắn chạy tội khi nói chuyện với chị em của hắn : “Cô ta gởi thư cho em nói gì, chuyển hết cho anh để anh còn nói chuyện rõ ràng với cô ta.  Anh lấy nhầm vợ nên anh chịu khổ mười mấy năm qua” Hay đại khái, có thằng ( năm 2011 không có gì làm, dùng thẻ tín dụng mua vé, mua quà để về Vietnam chơi luôn tiện đi từ Nam ra Trung nói xấu vợ mình), khi vợ đưa ra phi trường về Việt Nam gặp gái, hắn làm lơ câu hỏi của vợ “Anh thật sự về gặp Bố ở Vietnam và di dời mộ mẹ lần này có phải không!?”, hắn trân tráo chỉ vào mặt vợ “tui hối hận vì cô là mẹ của hai đứa con tui” (Sự thật thì Bố hắn không có từ Úc về Việt Nam, và việc di dời Mộ Mẹ hắn cũng không di dời mãi đến năm 2014).  Có thằng còn hèn hạ hơn, gọi điện dạy cho bồ làm gái của hắn chửi vợ mình rồi còn nói  “tôi yêu anh ấy chân thành, chúng tôi đến với nhau bằng tình yêu”, loại đàn bà một con (trai) ly dị chồng này còn nói luôn khi vợ hắn hỏi bà ta “có phải chồng tôi vừa gọi cho cô không?”, bà ta tỏ bề mình là người khôn ngoan “phải, ảnh biểu tui nói vậy chứ để chị nghĩ chúng tôi lẩn tránh chị về việc chúng tôi yêu nhau”.  Trong khi đó, hắn hứa cuội là hắn bỏ thói hư tật xấu để “bắt đầu làm một người chồng, người cha thực sự.”  Người vợ vẫn một lòng tin hắn (dù biết hắn luôn nói dối) sẽ ăn năn thống hối như cái hôm, hắn lôi xếch vợ hắn từ phòng học Kinh Thánh của Thiếu Nhi trong nhà thờ vào thẳng phòng thờ phượng khóc than như đứa trẻ, trước mặt nhiều người hắn ôm chân vợ năn nỉ xin vợ “xin em nói em tha thứ cho anh, anh sẽ ngay lúc này cầu nguyện và tin Chúa ngay lập tức”.  Nghĩ đến đây, tôi thấy Satan thật là con quĩ dữ.  Nó có thể làm mọi thứ để hủy diệt con cái của Chúa, nó thật tài tình trong kế hoạch tàn phá đời sống TIN KÍNH CHÚA MỘT CÁCH THÁNH KHIẾT của con cái Ngài.

“Hiểu gì?”

Câu hỏi của Hắn đưa tôi về thực tại với nan đề của Hắn.

“Hiểu rằng chính thói hư tật xấu của cậu đã biến một con người đáng yêu thành con người chán sống.  Chính sự vô trách nhiệm và vô tâm của cậu đã biến một con người đáng yêu thành một con vật ngày đêm vật lộn với cuộc sống đơn phương độc mã để duy trì cuộc sống mà ai ai cũng tưởng nó tốt đẹp, thực thế là cô ta đang duy trì sự sống của gia đình cậu trong một địa ngục đầy tội lỗi do cậu gây ra mà cô ấy chỉ vì cậu mà không thể thoát ra Ánh Sáng.  Tôi hiểu rất rõ nỗi đau thấm trong từng làn da, thớ thịt của vợ cậu, khi cô ấy là một Cơ Đốc Nhân Thánh Thiện, phải làm vợ một kẻ ngoại đạo chuyên sống trong tội lỗi ngày và đêm như cậu…Và tôi hiểu, cậu có lòng gian ác nên luôn nghĩ cách ngụy biện cho chính bản thân mình, không loại trừ cả việc nghi ngờ vợ mình và tự nghĩ những điều nhơ nhuốt rồi gán tội cho cô ấy…”

Giọng tôi nghẹn lại…Hắn bắt đầu cố tạo ra những điều ngụy biện cho tội lỗi của Hắn.  Hắn càng ngụy biện, tôi càng thấy mình cần phải đấm vỡ mặt Satan đang sống trong Hắn, không thể nào tiếp tục dung túng cho Satan đang hủy diệt con người Hắn, gia đình Hắn, đau đớn nhất là ba con người vô tôi lẽ ra phải được sống an vui, đó là vợ và hai con của Hắn.  Tôi nghĩ, Hắn không tin vào sự tồn tại của Cứu Chúa Giê-su, nếu dùng LỜI CHÚA để khuyên Hắn, chả khác nào như buộc kẻ vô thần chấp hành nghiêm chỉnh MƯỜI ĐIỀU RĂN của CHÚA.  Tôi nhìn Hắn nói chậm rãi từng chữ một.

“Cậu nghe đây, thứ nhất, tôi khẳng định rằng cậu chắc chắn chưa hề xin lỗi, hoặc chỉ xin lỗi một cách miễn cưỡng nhưng chưa thực sự nhận thấy việc nghiện cờ bạc (ngay cả sau khi vừa lấy vợ) và đàn bà, bỏ bê vợ con (chỉ sau khi sinh con đầu lòng 6 tháng) là sự sai trái trong hành vi của một người đàn ông đã lập gia đình.  Thứ hai, cậu không để cho người vợ đáng thương của cậu có cơ hội nói ra những tổn thương trong lòng cô ta, cậu lợi dụng lòng tốt của cô là luôn che chắn cho tội lỗi của cậu trước mặt gia đình, bạn bè và Hội Thánh mà cô ấy đi về thờ phượng Chúa. Cậu có biết khi vợ cậu bị tổn thương, cô muốn cậu phải biết điều gì khiến cho cô ấy bị tổn thương không!? Thứ ba, có thể cậu đã hơn ngàn lần hứa với cô ấy nhưng chưa có một hành động cụ thể nào để bảo đảm rằng cậu sẽ không tái phạm nữa, ngược lại, cậu lần tái phạm sau khủng khiếp và tội lỗi hơn lần trước, và cứ thế…”

Hắn nhìn tôi trân tráo.  Tôi cảm thấy cay đắng trong lòng, nhìn lại Hắn và vấn hỏi:

“Cậu muốn biết cậu cần phải làm gì vào lúc này phải không?  Để tôi nói cho cậu biết…”

Cố dằn con sóng giận đang muốn dâng lên trong lòng, tôi từ tốn:

“Cậu cần phải xin lỗi vợ cậu một cách chân thành vì cậu đã làm tổn thương cô ấy suốt bao nhiêu năm chung sống.  Hãy tự nói với cô ấy hành vi nào của cậu đã khiến cho cô ấy tổn thương, khi cô ấy biết cậu hiểu được những tổn thương cô cần được nói ra, tôi tin chắc cô ấy sẽ không bao giờ nhắc lại nữa.  Nhưng, điều quan trọng nhất là cậu không nên hứa mà cậu cần có một hành động cụ thể, chứng minh với cô ấy rằng cậu sẽ không tái phạm nữa.  Cậu cần xác quyết điều đó với cô ấy bằng danh dự của một thằng đàn ông và thực hiện nó.  Tôi tin cậu sẽ nhìn thấy sự thay đổi tuyệt vời đến không thể nào ngờ.”

Hắn lặng người, rồi lí nhí trong miệng:

”Có thể Mây nói đúng rồi đấy!  Tui chưa hề làm gì có ích cho gia đình cả, toàn báo hại vợ con thôi.  Nhưng cô ấy tự phong tặng cho tui những điều tốt tui chưa hề làm, mọi người cứ tin điều cô ấy khen ngợi tui là thật, còn tui thì lấy cớ đó để hạ nhục cô ấy.  Tui thấy thật xấu hổ quá không dám đối diện với cô ấy.”

Tôi nói nhanh:

”Đừng ở đó mà than vãn nữa, tôi còn biết vô vàn việc tội lỗi mà cậu đã làm gây tổn thương cho vợ cậu.  Cậu tự biết những việc đó đối với vợ cậu nó làm cho tâm hồn cô ấy bị vấy bẩn và đau đớn thất vọng đến thế nào. Tôi về đây, cậu tự suy nghĩ lấy hành vi của mình đi, và tự chọn cho mình một thái độ sống.  Đừng làm khổ cô ấy nữa.”

”Nghĩa là…”  Hắn ngập ngừng.

Tôi kết thúc:

“Tôi đã khuyên vợ cậu ly dị cậu và cô ấy đã đi gặp Bác Sĩ gia đình cùng Bác Sĩ Tâm Lý  đang điều trị căn bệnh trầm uất lâu năm do cậu tặng cho cô ấy để xin ý kiến.  Kết quả, rời khỏi cậu là con đường duy nhất có thể giúp cô ấy kéo dài cuộc sống để nuôi dạy con thay cho cậu như hơn mười mấy năm nay cô ấy âm thầm lặng lẽ nuôi dạy con một mình trong khi cậu ra ngoài cờ bạc và đàn điếm, bỏ mặc mẹ con cô ấy sống thiếu thốn, vay mượn, cô đơn cùng cực đến thế nào.”

Hắn trợn mắt:

“Cô độc ác thật.  Còn khuyên tôi xin lỗi vợ…”

Tôi khiêm khắc nhìn thẳng vào mặt hắn:

“Tôi không quan tâm cậu nghĩ về tôi thế nào, tôi chỉ quan tâm nếu cậu can đảm xin lỗi vợ cậu một cách chân thành, điều đó sẽ giúp vợ cậu, bạn của tôi, trút bỏ được những oan khiêng cậu đắp lên đời sống cô ấy ngần ấy năm trời một cách nhẹ nhàng hơn….Và tôi biết, sau khi rời khỏi cậu, cô ấy sẽ sống được yên vui hơn mà nuôi dưỡng, dạy dỗ sắp nhỏ nên người, cậu hiểu chưa?”

“Tui đã nhầm khi chạy đến cô lần này…”

Không để hắn nói hết, tôi gào lên:

“Phí thời gian trên một con người xấu xa có một không hai trên trái đất này như cậu giống như tôi lúc này mới gọi là NHẦM, đồ khốn.”

*Xứ Người 2014


SONY DSC
Tulip Châu Sa

Điện Về Thăm Mẹ

“Reng Reng Reng…”
“Ui có điện thoại, có điện thoại con ơi!”
“Mẹ Mẹ ơi! Từ từ chứ hông là lại té nữa!” Tiếng chị Hai Mây văng vẳng qua điện thoại. “Nhanh coi thử em có gọi dề hông chứ con.”
“Chắc lại là thằng Thành hay con Vân nữa chứ ai, hai cái đứa kia làm gì nhắn miết mà hông gọi dề cho Mẹ hông biết nữa.”
“Đứa nào đó, Mây hả con!”
“Dạ hông Mẹ, con Hường đây!”
“Dữ hông sao Mẹ nhắn ngược nhắn xuôi mà hai chị em bây hông gọi dề cho Mẹ?”

Chị của Mây đánh trống lãng.
“Mẹ khỏe hông?”
“Khỏe, bữa nay thì khỏe rồi.  Hôm cuối tuần rồi Mẹ nằm mơ thấy em con…”
“Em con mà đứa nào Mẹ?”.  Chị Mây cắt ngang.
“Thì con Mây chứ đứa nào nữa.”  Chị của Mây giật thót cả người.
“Ui mấy đêm liền Mẹ có ngủ được đâu, Mẹ thấy bất ổn lo lắng quá.  Con Mây đâu rồi!?”

Chị của Mây cố bình tĩnh.
“Dạ! Để con lên kêu em nói chuyện với Mẹ nghen….Mẹ ơi!  Hai mẹ con nó bày biện đàn sáo đầy ra đây rồi lăn ra ngủ say sưa rồi Mẹ.”
“Con thấy em nó có khỏe hông? Nó còn uống nước rau má hông con? Cớ gì mà con mén cứ đau lên bịnh xuống!?”
“Ai nói Mẹ là em con bịnh?”
“Em mang đủ thứ bịnh ngặt nghèo, hổng biết trở nặng lúc nào con hổng thấy sao còn hỏi Mẹ?”
“Con biết, nhưng dạo này nó khỏe, đi làm bình thường”

“Ời! Dậy Mẹ bớt lo, siêng gọi dề cho Mẹ biết tin em nghe con, nói con Mây rãnh siêng gọi dề cho Mẹ.  Hơn một tuần rồi hông thấy nó gọi.  Thường buổi sáng nó đưa con đi học rồi là nó gọi cho Mẹ trên đường nó lái xe đi làm, cả hơn 10 ngày hông thấy nó gọi, mẹ lo hông ngủ được.  Hôm cuối tuần Mẹ nằm mơ thấy em con dề đây thăm Mẹ mà cứ ơm Mẹ khóc ròng, Mẹ hỏi gì nó cũng hông nói, chỉ khóc rồi nói xin lỗi Mẹ.  Giựt mình, Mẹ thức luôn tới sáng, hông biết nó có giấu Mẹ chuyện gì nữa hông?  Rồi cái thằng đó có đi dề giúp con Mây chuyện nhà chuyện cửa gì hông con?  Con ráng giúp cho em, coi chừng nó, con mén, hễ nghĩ đến nó là mẹ thương đứt ruột.  Cái đứa yêu mến Chúa trung thành chờ đợi thì hông ưng, đi ưng cái thứ thiên lôi thiên tướng hông xứng với mình một li.”

“Mẹ đừng nói động đến cái thằng đó, con Mây nó nghe nó hông thích, con với thằng Thành bị nó giận hoài cũng dì nói động đến cái thằng đó! Mà dạo này em con không sao, cắt cỏ thì có con trai chú hàng xóm giúp nó mỗi hai tuần, điện đài, tủ lạnh bóng đèn hư hỏng có ông Andy sát bên giúp nó.  Thỉnh thoảng cậu Josh với cô Lisa đó, mẹ nhớ hông, họ giúp con Mây đưa đón dới lo dạy dỗ hai đứa nhỏ ở nhà thờ.  Thằng Thành gọi điện cho con Mây hàng ngày, con Mây cảm thấy dui dì có Thằng Thành cầu nguyện cho nó và giúp nó những ý kiến tốt lành theo ý Chúa, Mẹ đừng lo nghĩ nhiều ảnh hưởng sức khỏe nghe Mẹ, con Mây nó biết, nó không dui đâu Mẹ!”

“Già rồi, sống chi cho tội con cháu, Mẹ thương con Mây.  Cái đứa hiếu thảo, hiền lành, thông minh lanh lợi nhứt trong năm chị em gái, có ngờ đâu mà cuộc sống gia đình nó cũng trần ai cuốc chĩa dậy đâu mà.  Biết trước cuộc đời nó cơ sừng xẻ tai dậy hồi nhỏ sinh nó ra Mẹ đã không chạy chữa thuốc men cứu nó, bóp mũi cho nó chết luôn thì giờ hồn thân nó có phải khỏe không…Sao Chúa hông thương nó mà mang nó đi theo Cha con cho khỏe cái xác nó, để linh hồn nó được yên nghỉ, sống đau khổ cả tinh thần lẫn thể xác dậy sống để làm gì?”

“Thôi Mẹ ơi! Con Mây nó còn hai đứa con thông minh dễ thương, hai đứa nhỏ thương Mẹ nó, đứa nào cũng trông giống con Mây, thằng Chương thì y choang rồi, con Thy thì càng lớn càng giống Mẹ nó lúc còn bé đó Mẹ.  Mẹ cứ lo nghĩ, con Mây nó biết nó buồn thêm.  Con Mây nó tự biết “cá không ăn muối cá ương” và chấp nhận hết, nó rất hối hận đã cãi lời Mẹ.  Mẹ giao phó nó cho Chúa đi, Mẹ cầu nguyện nhiều cho nó.  Mẹ lo nghĩ đến nó hoài, nó càng thấy nó có lỗi với Mẹ, cũng tội cho nó chứ Mẹ!”

Bà Mẹ cười cười trong nước mắt.

“Ời! con đừng có nói với em nó nghe nó buồn.  Con mén cái tính hay mũi dạ.  Sau bữa nằm mơ thấy nó khóc, Mẹ mấy đêm có ngủ nghê gì được, hôm Thứ Hai, ra sau nhà phơi mấy bộ quần áo, chóng mặt quá Mẹ té xuống nền đá, úi cha, mặt mày đầu cổ bầm hết, bữa nay thì đỡ rồi.  Có chị Hai dề ở lo cho Mẹ, chiều nay chỉ dề bển lo cắt rau hái chuối đi bán chứ để nó già, chín quá có bỏ chứ làm đách gì được con. Chiều nay mẹ con chị Thảo nói dề mà không biết có dề hông, tuần trước bé Hiếu nó bận học nghị quyết nghị quéo gì đó nên hai mẹ con nó hông dề được.  Mẹ nhắn con Hiếu tin cho dì Mây bảo ‘Ngoại bịnh nặng’ để dì gọi dề cho Ngoại, nhưng con Hiếu nói cả tuần nó hông nhận được tin gì của dì Mây hết, mà cũng không gặp dì trên mạng trên miết gì đó, chờ hoài hông thấy đâm lo nóng ruột, may quá, hôm sau dợ thằng Thành gọi dề nói em con bình thường, nó đang bận rộn công diệc dới hai đứa con, dậy Mẹ mới thấy đỡ mệt trong người.  Dợ chồng thằng Thành gọi Mẹ hoài, tháng nào cũng gởi sữa, thuốc men và quà để Mẹ chích thuốc, tiêu vặt.  Chị em con đừng có lo cho Mẹ.  Tiền lời rút ngân hàng Mẹ cũng đủ ăn.  Nói cho con Mây nó biết, nó mừng, nghe con!”

“Dạ! Con biết rồi Mẹ ơi! Cô Lisa và cô Heidi nói với con Mây ngày mai trong núi Hocking có tổ chức hội xem Lá Thu thay màu, họ khuyến khích nó đi, con và mấy đứa nhỏ cũng đi với nó.”

Chị của Mây nghĩ đến sức khỏe em mình yếu đi, phải chờ cho tinh thần ổn định lại Bác Sĩ Davis Thomas mới làm Angiogram cho Mây để định hình vị trí động mạch não phình ra sau đó mới làm phẫu thuật cho Mây, lòng chị thắt lại.  Đây mới là lý do mà Bác Sĩ Mizenko muốn em Mây phải ra ngoài tiếp xúc với thiên nhiên và thực hiện những điều em của chị yêu thích.  Mây nó thích rừng núi thiên nhiên.  Con Mây nó Tin rằng Chúa Jesus sẽ chữa lành căn bệnh gốc nội tâm bên trong của nó.  Căn bệnh này bây giờ trở nên trầm trọng, không chữa dứt thì các bác sĩ theo dõi bệnh tình của Mây sẽ không yên tâm điều trị hay làm phẫu thuật cho nó. Chứng thiếu máu phải được phục hồi nhanh chóng.  Bản thân con Mây phải sống cho mạnh mẽ đầy nội lực.  Nhưng tất cả những thứ này điều phải cần đến Thời Gian, vì thế em của chị, con Mây đành phải nuôi bệnh bất đắc dĩ.  Những điều này Mẹ mà biết được, đột quị là cái chắc.  Cứ nói dối với Mẹ mãi, chị và em trai mình, thằng Thành không thấy lòng bình an.  Con Mây lại quyết tâm không nói dối Mẹ về tình hình của nó nữa, nên không dám gọi về cho Mẹ cả hơn tuần lễ qua.

“Ời, cuối tuần chị em dì cháu ra ngoài hít thở khí trời cho thỏa mái con!”

“Dạ, con biết rồi Mẹ!”

Bạn không còn đủ tài khoảng để tiếp tục cuộc nói chuyện.  Tiếng người phụ nữ đang nói Tiếng Anh giọng Mỹ vừa dứt.  Chị Mây cúp máy, mở cửa xem Mây và con trai đang nằm…ngủ.  Nhẹ nhàng khép cửa, chị trở xuống Basement tìm giấc ngủ sau một tuần làm việc thêm giờ liên tục, ngủ để sáng mai dậy sớm cùng Mây đi ngắm Lá Thu ở vùng rừng núi Hocking Hills.

*******

Cửa phòng Mây vừa khép thì Mây cũng ngồi dậy gạt phăng đi dòng nước mắt bướng bỉnh không chịu chảy ngược vào tim.  Mây không ngủ lại được, ngồi ghi lại cú điện thoại đường dài của Chị gái gọi về thăm Mẹ.  Hai chị Vân, Hường và anh  Thành điều nói dối Mẹ một cách hết sức tự nhiên.  Riêng Mây, từ lúc con người đó khiến Mẹ của Mây gần như đột quị phải nhập viện vì thái độ cô hồn của hắn, Mây quyết định không nói dối Mẹ nữa.  Mây không gọi về thăm Mẹ là vì Mây sẽ không tránh được những câu hỏi của Mẹ hướng đến việc Mây khai báo thành thật rằng Mây đã phải nhập viện từ hôm Thứ Sáu tuần trước vì những chứng bịnh cũ mà Mẹ Mây ngày đêm âu lo cho Mây.

Ngồi nhìn ra cửa sổ, một mảng tối tối mờ mờ, trời đầy sao, trăng non đi dạo sang đến hướng Tây rồi, Mây nghĩ đến sáng ra, Mây sẽ đi xem Lá Thu, tác phẩm của Đấng Tạo Hóa.  Có lẽ giờ là lúc tốt nhất để Mây đến gần với Thiên Nhiên, vẻ đẹp nguyên thủy của Đấng Tạo Hóa tạo dựng ra ban tặng cho loài người, trong đó có Mây!

Nghĩ đến những lời cay đắng từ đáy lòng Mẹ Mây vừa nói ra, Mây thầm nói:

“Mẹ ơi! tất cả những gì con đã trãi qua và sẽ trãi qua, ngày xưa, Cứu Chúa Jesus điều đã trãi qua hết rồi Mẹ ạ.  Ngài từng chịu nhiều thử thách và cám dỗ, nhưng Ngài đã chiến thắng.   Mẹ ơi!  Con sẽ chọn con đường Chúa Ngài đã đi để con chiến thắng hoàn cảnh khắc nghiệt này, con sẽ sống dù chỉ một ngày thực sự hạnh phúc rồi về với Chúa con sẽ rất vui.  Con chắc chắn sẽ làm được, vì Chúa Jesus Ngài đã hứa, con chọn đi theo Ngài thì Ngài sẽ ban ‘quyền’ và ‘phếp’ cho con để con vượt qua và đắc thắng ma quỉ.  Mẹ đừng để bụng, đừng nhìn vào những gì hiện tại ma quỉ đang ném bùn vào mặt con như nó từng ném vào mặt Chúa ngày xưa, đày đọa tinh thần, lẫn thể xác con như chúng nó đã đày đọa nhục hình Cứu Chúa Jesus của chúng ta ngày xưa, con xin Mẹ hãy hình dung đến, bằng sức Chúa, con sẽ thắng nó như thế nào trong tương lai Mẹ nhé!   Nguyện xin Chúa luôn gìn giữ tâm linh Mẹ mạnh mẽ, tâm hồn Mẹ yên bình và thân thể Mẹ khỏe mạnh! Amen!


SONY DSC
Tulip Châu Sa

1.

Tôi ngồi, nhìn đống lửa cháy bùng mong tìm hơi ấm, chiếc áo ấm bao kín đôi chân vẫn không làm sao thoát khỏi cái lạnh quanh hồ Cachuma.  Những câu chuyện tình được những đôi trai tài gái sắc lần lược kể nhau nghe một cách lãng mạn.  Nào là họ gặp nhau như thế nào, quá trình chinh phục quả tim nhau ra làm sao, điều gì khiến họ có ấn tượng đầu tiên ở đối phương..v..v.., và kết thúc bao giờ cũng là một cuộc sống hạnh phúc như họ vẫn đang rất hạnh phúc theo cảm nhận của riêng tôi.

2.

Tôi cũng chờ, chờ đến phiên mình để nói cho mọi người biết, ấn tượng đầu tiên tôi quyết định kết bạn với ông xã là anh có một tâm hồn chữ nghĩa giống như tôi, tôi tin chắc anh ấy sẽ hiểu nguyện vọng của tôi, và ủng hộ tôi trong hoài bảo viết lách của mình, điều mà ở xứ người bị xem là lẩn thẩn và thiếu thực tế..  Hồi đó, tôi quen anh tình cờ qua sinh hoạt văn nghệ, hiểu nhầm qua một bài thơ anh viết trên Xứ Việt và tờ báo Phượng Đỏ.  Kiểu cách anh nói chuyện khiến tôi nghĩ anh còn rất nhỏ.  Và khi có người con trai nào làm quen, tôi luôn chủ động xem họ là em.  Đó là thói quen của tôi rồi.  Suốt một thời gian tâm sự qua lại trong lĩnh vực văn nghệ, anh đã phải gọi tôi bằng chị, dù dần dà tôi cũng nhận ra anh lớn tuổi hơn tôi khi nghe anh kể về chuyến vượt biển của anh và gia đình.  Cũng như một vài cô gái khác, tôi ngưỡng mộ anh khi nghe anh kể, anh sang Úc vật vả với cuộc sống và lo ăn học thành tài.  Sau đó, anh bảo lãnh cả gia đình sang Úc định cư.  Tôi là người tỵ nạn theo diện HO, tôi hiểu những khó khăn, khổ sở mà anh và chị gái cùng em trai đã trãi qua như thế nào, chính vì thế khi biết anh là người đàn ông có trách nhiệm với gia đình, đã bảo lãnh Bố, chị và em sang Úc khiến tôi ngưỡng mộ đến vô cùng.  Càng ngày, tôi càng thấy anh là chỗ dựa vững chắc cho sự yếu đuối vốn dĩ trong tâm hồn tôi.  Có một lần, anh hỏi tôi, “nếu lập gia đình, chị sẽ mong đợi điều gì?”.  Chẳng cần phải suy nghĩ, tôi trả lời “chị chỉ cần một mái ấm trong đó hai con tim đi về có nhau, và chỉ có tiếng cười ngự trị, còn tiếng khóc, có chăng chỉ là tiếng khóc của trẻ thơ đòi Bố đòi Mẹ…! Đối với tình yêu, chị chỉ muốn hy sinh, tuyệt nhiên không đòi hỏi gì quá đáng!”.  Tôi cho rằng, kể từ câu trả lời này của tôi, đã gân ấn tượng đầu tiên trong lòng anh.  Và như thể hai nửa linh hồn vừa tìm được nhau, anh quyết định sang Hoa Kỳ thăm người chị ruột và luôn tiện thăm tôi.  Nhưng rồi, tôi muốn về quê thăm Mẹ đang ốm, chúng tôi đã về quê hương tôi, nơi có con Sông Trà từng tắm mát đời tôi thuở bé…

3.

Câu chuyện tôi chờ đợi kể mọi người nghe đã không còn là điều hấp dẫn nữa rồi, trong khi chờ đợi, tôi lại chìm dần vào sự mơ hồ của quang cảnh lúc chiều, lúc mà ông xã và tôi đi lạc trên đoạn đường núi thẳm, qua một cây cầu bên dưới là con suối nước chảy xiết…Tôi bắt đầu nghĩ đến Cha tôi, rừng núi nơi đây rất giống rừng núi Kim Sơn Bình Định, cả bếp lửa trại Cachuma cũng hao hao ấm lạnh như đêm xưa, là lúc tôi và Mẹ tôi ngồi ở ngã ba giữa vùng rừng núi linh thiêng, Mẹ tôi nhóm đóm lửa để làm dấu hiệu cho những người vợ, người Mẹ thăm tù ở các ngã khác nhìn thấy mà hội nhập cùng Mẹ con tôi, để cùng nhau băng qua con suối đang mùa nước lũ…

Lần thứ hai Cha đã vì tôi mà khóc!

Năm ấy, tôi chín tuổi.  Lần đầu tiên Mẹ dắt tôi đi thăm Cha trong tù cải tạo Cộng Sản.  Tôi nhớ, Mẹ và tôi đi bộ hơn mười cây số trong đường núi, tôi đuối sức Mẹ phải có lúc vừa gồng gánh vừa cõng tôi trên lưng.  Chúng tôi đến trại thăm nuôi vào khoảng gần trưa.  Mẹ tôi nhìn tôi dặn dò “con ngồi đây canh đồ, Mẹ chạy ra cánh đồng kia xem bác nào đang đi nước”.  Tôi nhìn Mẹ “Dạ, Mẹ đi đi” và hình như tôi chẳng hiểu vì sao Mẹ phải đi tìm những người tù đang đi nước ngoài cánh đồng.  Khi Mẹ trở lại, tôi thấy Mẹ cuộn một số tiền, cột chung với một viên đá.  Rồi Mẹ tôi lại bảo “ngồi yên đó, Mẹ chạy ra phía sau trại thăm nuôi Mẹ sẽ trở lại liền”.  Tôi nhìn thấy Mẹ tôi ném viên đá đó xuống một vực thẳm.  Tôi đến gần, Mẹ bảo “Cha con đang ở dưới đó!”.  Thế rồi, Mẹ con tôi chờ cho đến giờ thăm nuôi.  Trong lúc chờ đợi, Mẹ tôi lại cuộn hai chục đồng và căn dặn tôi kỹ càng “lát nữa Cha ra tới, con chạy tới ôm Cha, và nhét vào túi áo của Cha hai chục đồng này, nhớ đừng để công an, bảo vệ nhìn thấy”.  Giờ thăm nuôi lại đến, tôi hồi hộp và cố hình dung bóng dáng Cha tôi.  Cha bị bắt vào tù khi tôi còn quá nhỏ để nhớ hay để ghi nhớ một điều gì rõ rệt, tôi chỉ nhớ loáng thoáng khuôn mặt Cha tôi, gầy và sáng.   Những người tù đang đi dần về phía trại thăm nuôi, Mẹ tôi chỉ tay vào người đàn ông mặc áo tù đi dưới cùng rồi bảo “đó là Cha con đó”.  Cha đến gần, như một lực hút từ tâm, tôi lao thẳng vào lòng Cha tôi, dù Cha chưa đến điểm Trại thăm nuôi.  Tôi đã nhét vào túi áo tù Cha tôi hai mươi đồng bạc.  Cha tôi ôm xốc tôi lên, hôn tôi và khóc: “Con gái lớn nhanh quá!”, tôi đã khóc, Mẹ tôi đã khóc.

Việc thăm nuôi diễn ra nhanh chóng, tất cả những gì Mẹ được phếp mang vào cho Cha tôi phải đổ ra tấm bao cát lớn để công an kiểm tra.  Tiền bạc là điều cấm.  Chính vì thế mà Mẹ tôi phải dùng cách nhắn tin cho bác đi nước trên cánh đồng tìm Cha tôi, như đã hẹn và hiểu nhau, Cha tôi lén xuống bờ suối, Mẹ tôi đứng trên trại thăm nuôi, họ thường nhìn nhau và nhắn đôi câu qua cách này, kết thúc là việc Mẹ tôi ném xuống một viên đá kèm theo tiền bạc và thư từ bị cấm.

Biết trước có tôi vào thăm Cha, Cha tôi đã mang theo một buồng chuối đồng nai nhỏ chín mùi.  Đó là quà mà Cha xin những người bạn tù ở trại tự do (Cha tôi ở trại cấm) mang ra cho tôi.  Thật là hụt hẫng cho tôi, trên tuyến đường bộ vào trại thăm nuôi, Mẹ và tôi gặp một người phụ nữ gánh hàng bán dạo, tôi đòi Mẹ mua một nhánh chuối đồng nai để tôi mang vào biếu Cha tôi.  Bấy giờ, Cha nhìn nhánh chuối bảo “thôi để Cha nhận nhánh chuối này, còn buồng chuối kia con mang theo ăn dọc đường với Mẹ!”  Tôi nhìn Mẹ, Mẹ gật đầu.  Khi mọi thứ đã kiểm tra được dồn vào bao, cũng là lúc Cha, Mẹ và tôi phải chia tay nhau.  Cha Mẹ tôi nhìn nhau, Mẹ khóc mãi, tôi cũng khóc chạy ôm Cha lần cuối.  Những người tù đã chia tay vợ đi vào trại, Cha tôi buông tôi ra và vác bao cát vừa đi vừa thỉnh thoảng đứng nhìn lại.  Mẹ và tôi cứ đứng đó cho đến khi Cha đi khuất vào khu trại giam Nghĩa Điền giữa rặng núi hoang vu đầy u ám.

4.

Đêm Cachuma, đêm đất khách quê người.  Chẳng phải “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du-Truyện Kiều) mà là cảnh vật nơi đây đã khiến tôi buồn thương nhớ Cha da diết.  Các trại viên vẫn còn nhiều câu chuyện tình để kể nhau nghe, tôi nằm trong chiếc liều gió khua liên hồi, lạnh.  Lạnh từ trong hồn tôi lạnh ra ngoài da buốt giá.  Mãi đến hơn hai giờ sáng, lửa trại tàn tôi mới thật sự tìm được giấc ngủ trong tiếng hát ru của Núi Rừng Cachuma…

October 20, 2012


SONY DSC
Tulip Châu Sa

Nghĩ cũng lạ đời, tên chết dịch, mọi người sau khi nghe hắn kể chuyện tan thương của hắn về việc cô Mây ngoại…tình thì đều gọi hắn như thế, hắn cứ tối ngày kêu oan rằng cô Mây chỉ chia sẻ MỘT NỬA SỰ THẬT của câu chuyện, chuyện gì thì không ai biết, hắn đúng là nghĩ cạn.

Thế,  MỘT NỬA SỰ THẬT kia đã được chính hắn, một thằng đàn bà không hơn không kém thường ngồi lê đôi mách, lười biếng không muốn làm việc, hoặc chẳng bao giờ làm cho ra tích sự gì, chỉ toàn gian lận giờ giấc của công ty mướn hắn để chui vào sòng bạc và mua dụ đàn bà bẩn khắp nơi, lê lếch từ tiệm ăn, đến sòng bạc đến tất cả các trang thông tin đại chúng và đặc biệt là qua cái điện thoại của hắn, ngày qua ngày hắn truyền đi đến cả thế giới MỘT NỬA SỰ THẬT của RIÊNG HẮN về Mây rồi, hắn lại còn DẠY cho những người đàn bà vô học, vô cùng hạ tiện và bạn bè xấu của hắn, họ chỉ biết dùng ngôn từ bẩn và tục tĩu được hắn huấn luyện cho qua điện thoại, qua emails thậm chí hắn đến gặp mặt để huấn luyện kỹ hơn và dễ đánh lừa bọn họ hơn khi hắn…diễn một màn bi hài kịch trước mặt họ bằng những giọt nước mắt cá sấu của hắn tưởng chừng như hắn đang đau khổ đến tận cùng vì bị cô Mây phản bội,  để rồi họ chửi cô Mây hăng hái hơn, nhiệt tình hơn, xem thường cô với thái độ cực kỳ lạnh lùng, cực kỳ đáng chán ghét và ghê tởm nữa.   Đã có khối người mù tin hắn, vén tay áo lên nhiệt tình tiếp tay cho hắn hại cô Mây rồi, thế thì, cô Mây còn phải phí thời gian làm gì nhỉ!?.  Hỏi có phải là hắn cứ kêu oan là vì hắn nghĩ cạn không?

Nếu cô Mây là người tuyệt vời trong việc kể MỘT NỬA SỰ THẬT về câu chuyện đời mình như hắn nghĩ, thì, hắn là một tên sắm vai hiền diễn tả cái bản chất cực ác bên trong của hắn vô cùng kiệt xuất.

Một nửa sự thật thì cố nhiên không phải là sự thật. Mây không có thói quen kể một nửa câu chuyện để làm rối trí người đọc. Mây chỉ là không lấy râu ông nọ để cắm cằm bà kia như hắn vẫn luôn làm để lừa lọc người khác mà thôi. Chuyện gì ra chuyện đó, cô Mây không hề giống hắn, nếu hắn là kẻ chuyên NGỤY BIỆN thì cô Mây là người cực kỳ chán ghét những kẻ chỉ sống bám vào một từ với hai chữ: NGỤY BIỆN. Đối với cô Mây thì hành vi ngụy biện là hành vi của những kẻ nhiều tuổi nhưng suốt đời không chịu khôn lớn.

Cô Mây hôm nay rất muốn chính thức nguyền rủa hắn theo sự cho phếp của Chúa, để biết đâu chừng hắn chực tỉnh ra rằng, nếu hắn cứ tiếp tục theo bản năng của hắn mà DỐI TRÁ, NGỤY BIỆN, GÁN TỘI cho người khác sẽ không giúp được gì cho khoảng đời còn lại của hắn.  Chỉ có ăn năn thống hối thật lòng thì hắn mới có cơ hội ngẩn mặt làm người, chứ không phải dối gạt mọi người như hắn từng dối gạt người thân của hắn, những người liên hệ đến hắn, và với nhiều người đàn bà vô tội, nhất là đối với cô Mây.   Hắn từng trước mặt bá quan văn võ, ôm chân cô Mây trong nhà thờ Northwest Bible Church vào buổi chiều Thứ Năm ngày 17 tháng 6 năm 2010, gục mặt rồi hắn khóc như một đứa trẻ con, hắn tha thiết xin Mây tha thứ cho tội lỗi của hắn.  Hắn thề thốt, nếu cô Mây chịu tha thứ cho hắn thì hắn “sẽ lập tức quỳ gối tại nơi này cầu nguyện tin Chúa ngay” trước mặt cô Mây.  Hắn đúng là chẳng hiểu cô Mây tí nào mới tỏ ra thái độ thề thốt.  Cô Mây vốn không hề tin vào những lời thề thốt.  Đối với cô, những kẻ cứ hở đâu là buông lời thề thốt đó lại chính là những kẻ sống gian trá nhất trên thế gian này.  Cô muốn nguyện xin Chúa trừng phạt hắn thẳng tay theo tội ác hắn đã và đang tiếp tục giáng xuống đời Mây, làm đau khổ và tan nát cõi lòng Cha-Mẹ và anh chị của Mây.  Họ từng bị hắn chơi khăm và lường gạt qua hành vi lợi dụng người chị dâu của Mây làm công cụ nói xấu Mây với gia đình và mọi người xung quanh với mục đích che dấu và đổ tội cho Mây về  hơn 13 năm nợ nần chồng chất trên đầu Mây vì thói nghiện cờ bạc và gái lú của hắn.  Nhưng, sống dưới trời này, việc ta đã làm, có ai che giấu được mãi không!?  Rồi khi mọi người nhìn thấu bản chất của con người hắn thì người thân của Mây, là những người cứu Mây sau những lần gục ngã dưới mưu kế của hắn đã rơi vào trạng thái thất vọng và căm hận hắn đến tận xương tủy.  Bởi vì, một nửa gia đình Mây là những người chưa có cơ hội được nghe SỰ CỨU RỖI của Chúa, họ luôn gặp khó khăn trong việc tha thứ,  yêu thương kẻ thù nghịch lại mình và hết lòng cầu nguyện cho họ giống như Mây, anh trai và chị gái của Mây là những người đã thuộc về Chúa có thể làm tốt một cách dễ dàng .  Bây giờ, Mây không còn lý do gì để tiếp tục bảo vệ cho hắn nữa.  Hành vi của hắn đã chia rẻ gia đình của Mây trong một thời gian dài.  Cố nhiên thôi, loại người như hắn, nếu Mây càng vị tha đối với hắn, hắn càng trở nên cay độc với Mây và lợi dụng lòng nhân từ và sự nhịn nhục của Mây đến cùng, vì hắn không dám đối diện với sự thật về quá khứ và hiện tại của hắn, hắn dĩ nhiên phải tìm người gánh tội cho hắn, mà người duy nhất hắn có thể lợi dụng chỉ có Mây, không có một người thứ hai nào trên trái đất này giống như cô Mây chịu nhận mọi thiệt thòi về mình, hy sinh vì hắn cả.  Nhưng đến nước này rồi, Mây cần phải trở nên cứng rắn hơn thậm chí cô cần phải tuyệt tình nữa, thì may thay mới còn một con đường cho hắn quay đầu lại vào bờ để khởi đầu lại một cuộc sống có ý nghĩa cho bản thân hắn. Nếu đời người là 60 năm, hắn chỉ còn một phần ba đời người để sống chứ không phải để phung phí trong sòng bạc và gái lú như hắn đã và đang sống kể từ khi hắn đặt chân lên mảnh đất TỰ DO xứ Úc và bây giờ là xứ Mỹ.

32 năm qua hắn đã sống một cuộc sống quá vô nghĩa. Hắn đã gieo khổ cho quá nhiều người.  Trong số người đó có những người chị hết mực yêu thương hắn và cũng vô cùng thất vọng về hắn.  Cố nhiên thôi, với hắn thì mọi người liên quan tới hắn chẳng còn gì nữa để mà lưu luyến, bởi, hắn phung phí hết mọi tâm huyết và kỳ vọng cũng như sự hy sinh thầm lặng của mọi người.  Tất cả họ, kể cả Mây đã không còn kiên nhẫn để giúp hắn hoàn lương hướng thiện.  Một sự thật rất đau lòng cho những người buông bỏ hắn trong thất vọng và nghẹn đắng buồng tim.


SONY DSC
Tulip Châu Sa

Anh để mắt đến tôi vào một buổi chiều tôi trốn giờ Văn Học Việt Nam của giáo sư Phạm Mậu Thành, lên giảng đường A24 xem Anh thi đấu tranh giải ba-tư  bóng bàn sinh viên toàn quốc năm 1993. Tôi đến đó để ủng hộ anh Nhựt, một sinh viên khoa vật lý của trường tôi, Trường Đại Học Đà Lạt, còn Anh, Anh đến từ trường Đại Học Kinh Tế, Sài Gòn.

Những tưởng chỉ có sinh viên khoa quảng trị mới rãnh rỗi đến xem, nào ngờ, cổ động viên khoa Lý và khoa Văn ngồi chầu chật ních hội trường. Tôi cũng tìm cho mình được một chỗ ngồi tôi cho là an toàn. Trận đấu bắt đầu, anh Nhựt được sự cổ vũ  nhiệt tình của toàn bộ sinh viên Đại Học Đà  Lạt. Tôi tội nghiệp cho Anh chàng sinh viên trường Đại Học Kinh Tế. Mỗi khi Anh ghi bàn thắng, chỉ lẽ tẻ tiếng vỗ tay của đồng đội Anh, tôi lại cổ vũ  Anh. Tôi nhận ra được niềm vui trên gương mặt đó. Nụ cười và ánh mắt ấy nhìn tôi ngầm muốn nói “cảm ơn cô”. Còn tôi, khi trận đấu đi đến giai đoạn căng thẳng nhất, đã  bị sinh viên chính khoa mình xô ngã ra khỏi băng ghế, hình phạt của sự “phản bội” không ủng hộ đội nhà. Tôi bò dậy nhún vai, chau mày lúng túng trước cái nhìn có chút thương hại vừa cảm thông của Anh. Thật sự, tôi ủng hộ cả hai. Tôi chỉ không nhẫn tâm chấp nhận sự cổ võ rầm trời chỉ dành cho anh Nhựt, trong khi Anh là cầu thủ vượt trội hơn rất nhiều.

Cuối cùng, đúng như  tôi vừa dự đoán vừa mong đợi, giải ba thuộc về trường Đại Học Kinh Tế. Mọi người hụt hẫng chạy như  điên về giảng đường của khoa mình. Chẳng giống tôi thường nhật, hôm đó tôi bước ra với tốc độ rùa bò. Chàng sinh viên kinh tế bước vội đến bắt tay tôi “cảm ơn cô”, tôi đáp lại “chúc mừng Anh”. “Hôm trước cô chỉ đường cho Anh lên Năng Tỉnh gì đó phải không?”. “Là Anh đó à?” “phải”, “sao kỳ vậy”, tôi nghĩ  thầm. Anh chàng sinh viên hôm trước gương mặt khờ khạo ngớ ngẩn lắm kiamà. Bây giờ thì lại là một người khác hẳn, đôi mắt sáng như  quắt vào mắt tôi. Tôi bắt đầu nhớ lại.

Hôm thứ Hai, lúc quá trưa, tôi dán mắt xuống con đường dốc, đi nhanh về phía giảng đường A7 cho kịp giờ Ngôn Ngữ Học. Đột nhiên Anh gọi tôi “cô ơi”, tôi thắng lại suýt chạm vào người Anh, nhìn lên “có việc gì ạ?” “cho tôi hỏi đường đến địa điểm tập trung của các cầu thủ bóng bàn?”. Tôi nghiêng người đưa tay chỉ lên hướng Năng Tỉnh “Anh đang đứng trước nó rồi, lên khỏi bậc thang này Anh sẽ đến Năng Tỉnh?”.  “Năng Tỉnh?”,  “người ta gọi thế, còn vì sao tôi không biết.” “à, này cô” “còn gì nữa ạ” “cô tên gì, sinh viên khoa nào vậy?” “Diễn Chinh. Văn, khóa 15” “cảm ơn cô”. Rách việc tôi rồi. Tôi phải đi như chạy về giảng đường mới kịp. Thầy Phạm Quang Trung ghét nhất là sinh viên đi trễ dù chỉ dăm ba phút. Khi rẽ xuống một con dốc khác, tôi nhìn lên, Anh còn đứng tần ngần giữa bậc thang đó, có vẻ như đang ngắm và chụp hình mấy cây Mimoza cùng Hoa Anh Đào đang lát đát nở đầu Xuân.

Tôi trở về thực tại, nhìn Anh, “Lê Trung Thành”, “sao cô biết tên tôi?” “Anh tự suy nghĩ lấy”,  “à…”. Lại ngớ ngẩn rồi Anh ạ, có lẽ nào tôi trốn học đi xem thi đấu bóng bàn mà lại không biết tên hai cầu thủ. “Quên tên tôi rồi phải không?” “còn nhớ, Diễn Chinh, Văn, khóa 15”. Trí nhớ Anh không tệ. “Tối nay tranh giải nhất-nhì trên lầu hội trường này…”, “Giảng đường A24”. Tôi xen vào sửa lưng Anh. “À, giảng đường A24, em đến cổ vũ  cho trường Anh nhé.” Tôi đáp lại bằng một cái nhìn dấu chấm hỏi, “bạn Anh sẽ gặp đội Hàng Hải”. Tôi nhìn Anh vì Anh chuyển hệ từ “cô” sang “em” vô phếp tắc chứ không phải để nghe giải thích “bạn Anh gặp đội Hàng Hải ”, điều đó tôi thừa biết qua các bản tin dáng đầy trước cửa các giảng đường Văn Khoa. Tôi tặng Anh cái nhìn cảnh báo “không chừng tôi lớn tuổi hơn Anh đó.” Anh thiệt thà, lắc đầu, nhún vai “Anh không nghĩ  vậy.”

Tối Thứ Năm hôm đó, tôi đến giảng đường A24 tầng lầu. Đến muộn. Tôi đứng trên chiếc ghế ở sau cùng mới có thể nhìn hai cầu thủ thi đấu. Tôi nhìn thấy Anh ngồi bên tay phải, dĩ nhiên Anh không nhìn thấy tôi. Đôi mắt sáng thông minh đó dáo dác tìm người quen. Trên tay cầm cuốn sách mỏng tôi không biết là sách gì, chỉ lấy làm lạ. Chỗ đông người, lại phải đứng tự hành xác, tôi cảm giác được máu chảy qua tim mình đang thiếu ô-xy, tim tôi bắt đầu điệp khúc lười biếng của nó, khó thở, tôi quyết định một mình đi bộ về quán trọ trước khi ngã quỵ ở chỗ này. Qua khỏi con dốc sau trường Đại Học, trước khi bước xuống đường Phù Đổng Thiên Vương để rẽ phải về quán trọ, tôi dõi mắt về quán trọ 3A, nơi tôi từng trọ ở đó. Đèn phòng bên ấy còn thắp sáng. Trái tim lại không làm trọn chức năng, nó khiến lồng ngực tôi đau nhói. Tôi như quên mình đang đi về đâu. Cuối cùng, đôi chân cũng đưa thân xác tôi về trước quán trọ của mình. Tôi bước vào, muốn dạo dăm ba khúc nhạc, nhưng nhìn cây đàn ghi ta như muốn nhắn nhủ tôi rằng “cô chủ mệt rồi, ngủ đi”. Viết xong đôi dòng nhật ký, tôi nằm xuống ngủ vùi cho đến lúc Dung về tôi mới ngồi dậy làm công việc vệ sinh buổi tối. Trở lại giường, nằm thao thức đến canh tư , bên cạnh tiếng thở đều của Dung và chị Thủy (Văn K14- người tặng tôi chiếc áo gió màu vàng mà Thu Vân hay “mượn” để diện vào những dịp có người thân hoặc bạn bè lên Đà  Lạt thăm Vân), và tôi thiếp đi trong cơn mộng mị.

Sáng hôm sau, chị Hòa (Văn K14) từ cư xá ghé qua quán trọ trao cho tôi một cuốn Catalog của trường Đại Học Kinh Tế, bảo rằng “Anh chàng sinh viên Đại Học Kinh Tế gởi tặng em”, “cảm ơn chị”. Tôi nhận, và biết đó là Anh. Đây là cuốn sách tôi nhìn thấy trên tay Anh tối qua. Có thể, người mà Anh đã dáo dát đưa mắt tìm tối qua chính là tôi. Tôi đã  suy đoán đúng. Tôi mở cuốn Catalog ra, thấy dòng chữ Anh ghi trên trang đầu “Tối qua tìm em mãi, tặng em tấm hình và cuốn sách về trường Đại Học Kinh Tế”, Anh không quên để lại địa chỉ, điện thoại trên trang sách. Tôi đọc những dòng chữ phía sau tấm hình Anh chụp trong phòng làm việc của Tổng Thống Ngô Đinh Diệm tại Dinh III “Đà  Lạt yêu dấu…nhớ về một người có rất nhiều kỷ niệm. (ký tên) Lê Trung Thành”. Dòng sau cùng “Mến tặng Diễn Chinh, người bạn Đà  Lạt, 11-1993.” Chỉ vậy thôi, mà đối với Anh “có rất nhiều kỷ niệm”. Tôi thật không làm sao hiểu được.  Chỉ biết, từ lúc nhận được cuốn Catalog Anh tặng, tôi không ngừng suy tưởng về Anh, về cách chúng tôi đã gặp nhau tình cờ…

Trường Đại Học tổ chức lửa trại vào tối thứ Bảy. Các trường tham dự giải bóng bàn điều ở lại tham gia. Đêm đó Anh đến trại khoa văn K15 tìm tôi. Không gặp tôi. Anh gởi lại mảnh giấy “Diễn Chinh, Anh đưa bạn bè đến giới thiệu với em nhưng không gặp, em trở về đợi Anh nhé, 25 phút sau Anh trở lại.” Nhưng khi tôi trở về đọc mảnh giấy này, Anh đã  trở lại thêm vài lần nữa. Vẫn không gặp được tôi.

Tôi nhớ đêm đó, tôi cùng Hiếu (Nha Trang) đi dạo dưới trăng non quanh trường Đại Học, hết giảng đường này đến giảng đường khác. Chúng tôi về ngồi trước sâu khấu dưới thung lũng trước nhà khách của Trường Đại Học, chờ nghe cô danh ca Lê Dung hát. Thích thú khi thấy anh Tuấn văn K13 lên hôn cô Lê Dung và tặng hoa cho cô ấy. Rồi chúng tôi xem vở kịch do thầy Thông (Ngôn Ngữ) viết, sinh viên văn K16 thực hiện. Vở kịch mang tính hiện thực, nhạc lồng không tệ. Tôi thích những diễn viên “nghiệp dư” chuyên chở tốt những kịch tính cần thiết trong vở kịch, tạo cho người xem cảm nhận mình đang là người trong cuộc.  Một vở kịch hay.

Ngồi một mình trong trại, cầm mảnh giấy trong tay, tôi quyết định chờ Anh. Trăng non cũng đã  lên đến đỉnh đầu, nhưng Anh không trở lại. Hôm sau Anh trở về Sài Gòn. Tôi biết mình không còn cơ  hội nói chia tay. Đọc lại mảnh giấy nhắn tin của Anh, tôi bắt đầu nghĩ  đến Anh, không biết Anh có buồn khi đến trại Văn Khoa mà không gặp được tôi không? Úp mặt lên đôi tay vòng qua gối, tôi ước gì thời gian quay ngược lại, tôi sẽ ngồi đây chờ Anh trước khi Anh đến tìm tôi.   Tôi cắn chặt môi, cố ngăn những giọt nước mắt ướm trào ra khóe mắt.

Tôi có hai người bạn thời Trung Học, đang tập huấn tại Viện Lục Quân Đà Lạt trong thời gian tôi ở trong Đại Học, đó là Cảnh và Bình. Cảnh thường lên tìm tôi trên trường Đại Học (khổ nỗi lần nào cũng khoác áo lính). Mang theo những thức ăn đồ dùng của lính mà Cảnh, Bình không sử dụng hết, để dành chia sẻ với tôi. Tôi không đành nhìn Cảnh lần nào cũng chờ tôi ở trước cửa thư viện với “hành trang” nhìn vào người ta nghĩ  ngay “anh nuôi” vừa từ chợ về. Tôi bảo Cảnh “đừng mang đồ vào đây nữa, lên thăm tui được rồi, nếu có thực phẩm ‘cần xử lý’ nhắn tui xuống lấy.” “Có sao đâu, tui đem lên, luôn tiện thăm bà” “cảm ơn ông, tui muốn ông thi hành lệnh, bèn như không tui báo cáo thủ trưởng, từ nay ông ‘miễn’ ra ngoài doanh trại rong chơi vô kỷ luật.” Cảnh cười.  Và cách chúng tôi hẹn nhau “nếu không gặp tui, đừng đợi ở trước thư viện lâu, gởi mảnh giấy nhắn tin cho cô Lý làm thư viện, tui nhận được sẽ xuống.” Tôi đã nhận tin của Cảnh sau lửa trại hai tuần. Ngày Chủ Nhật, tôi rủ Thu Vân, người bạn học đồng hương cùng đi xuống Viện Lục Quân thăm Cảnh và Bình.

Chúng tôi đi “không” về “có”. Đang cuốc bộ và khệ nệ với những “món quà” của lính trên chiếc xe đạp trành xẹp lốp của tôi, đột nhiên tôi dừng lại. Chính là Anh rồi. Không nhầm lẫn được. Tôi gặp lại Anh trên đường Yersin (Alexandre Yersin Bác Sĩ  người Pháp khám phá ra cao nguyên Lang Biang) gần Hồ Xuân Hương. Anh đi cùng với một người bạn. Tôi bẽn lẽn cuối đầu thay câu chào, tôi nhận biết tay chân mình trở nên lúng túng run rẩy mà không hiểu vì sao. Người bạn của Anh đã  giúp chúng tôi mang những món quà của lính về quán trọ trong khi Anh mang mớ hành trang của hai người từ Sài Gòn lên. Dọc đường chúng tôi chia sẻ  với nhau về nhiều câu chuyện, mà đề tài tôi không còn nhớ rõ. Chỉ vì tôi không tập trung vào những câu chuyện đó. Tôi hay nghĩ đến một điều “vừa rời Đà  Lạt hai tuần, Anh lên đây làm gì?”

Về đến quán trọ, tôi mời hai anh ghé vào “thiên đường hạ giới” của chúng tôi. Tôi làm tròn bổn phận của chủ quán trọ đãi ngộ khách. Ý nghĩ  “vì sao tôi gặp lại Anh nơi đây?  Anh đang trốn học hay có nhiệm vụ gì liên quan đến chương trình ở Đại Học Kinh Tế không?” thúc giục tôi mở miệng “các anh lên đây có việc gì quan trọng?” “tụi Anh đang tìm nơi chuẩn bị cho kỳ trại Thanh Niên cuối năm”. “trại Thanh Niên?” “Hội Thánh Anh tổ chức trại hàng năm”, “Hội Thánh Anh?” “tụi Anh là những thanh niên Tin Lành” ,“Tin Lành?” “Gia đình Anh theo đạo Tin Lành!” Anh giải thích. Tôi liên tục vặn hỏi không vì mù tịt với hai chữ Tin Lành, mà vì tôi hiếu kỳ muốn biết “người Tin Lành” sống như thế nào? Lúc đó, không biết Anh nghĩ gì khi trong phòng trọ chật hẹp của chúng tôi vẫn còn chỗ cho cái bàn thờ Phật mà Dung và Loan lập nên. Anh bắt đầu thao thao bất tuyệt về tin tốt lành của Chúa của Đạo Tin Lành.  Và tôi, dĩ  nhiên ngồi nghe như  nín thở. Tôi thật tình không hiểu gì về lẽ đạo của Chúa vào lúc đó . Chúng tôi chia tay trước khi hoàng hôn xuống. Anh để lại tôi những câu hỏi lớn trong đầu, về những điều tôi chưa từng trãi nghiệm. Tôi hình như bắt đầu có cái nhìn khác về người Tin Lành. Không chỉ riêng Anh, mà cả người bạn đi cùng Anh, cũng toát lên vẻ thu hút mạnh mẽ vô cùng. Thu hút sự chú ý của tôi về nhân cách và tâm hồn rất khác thường so với những thanh niên khác.  Tôi biết mình đã quí mến họ cũng một cách khác thường.

Anh trở lại Đà  Lạt vào đầu Xuân. Có phải lần trước mãi mê trò chuyện mà Anh không để ý đường đi, để lần này, Anh lại dò hỏi tìm tôi. Vô tình, Anh dừng lại ở quán trọ 3A, nơi đầu tiên tôi chuyển ra trú ẩn từ cư xá sinh viên. Tôi không biết ai trong quán trọ chỉ đường cho Anh. Hình như Anh Phương hay Định cháu tôi thì phải. Anh đến, cầm trên tay tấm thiệp hoa anh đào bị rách đi một góc. Anh giải thích “lúc tấm thiệp xuân này đến, Anh còn ở Nha Trang”. Tôi mím môi gật đầu. Anh tiếp “người nhà của anh đã  làm một việc tàn nhẫn…” Tôi mở to đôi mắt nhìn Anh cầm cự hơi thở. “Họ không cẩn thận khi xé thiệp ra xem, làm rách đi một góc hoa anh đào.” Giời ạ, tưởng gì, tôi thở ra nhẹ nhõm. Tôi nhớ lại, trước khi về quê đón Tết, tôi gởi  tặng Anh một tấm ảnh hoa anh đào do anh Khá văn K14 chụp. Tôi đề tặng “Trung Thành, trước thềm năm mới, mến chúc anh và gia đình một năm mới bình an và phước hạnh trong sự bảo toàn của Chúa. Diễn Chinh. Xuân ‘94”. Tôi cầm tấm thiệp từ tay Anh “vẫn đẹp đấy thôi, chỉ  mất đi một góc”, “Anh cảm thấy tiếc” “Anh không còn thích nó nữa?” “Vẫn thích”, “thế thì được rồi”.

Tôi chỉ nhớ có vậy. Tôi đã  gặp Anh như  thế. Và Anh đã  từng trở lại tìm tôi. Chúng tôi chưa từng bày tỏ với nhau chuyện liên quan đến con tim, dù chỉ qua những ngôn từ khờ khạo của tuổi sinh viên. Tôi biết tôi ngưỡng mộ Anh về tài chơi bóng bàn, và nhất là một nhân cách khác người khi ngồi đối diện cùng tôi. Chúng tôi chưa từng hẹn hò, nắm tay nhau, hay dạo chơi riêng ở bất cứ nơi nào trên Thành Phố Sương Mù, nơi chúng tôi đã  gặp nhau. Anh đối với tôi không có sự rung cảm của con tim, còn tôi, tôi không biết rõ, chỉ biết tôi thường bối rối và không bao giờ dám nhìn thẳng vào đôi mắt sáng thông minh của Anh.  Mỗi lần Anh xuất hiện rồi biến mất tôi lại thấy mình rơi vào trạng thái hụt hẫng bâng khuâng suốt cả tuần.

Lần chia tay ấy rồi thôi. Tôi không gặp lại Trung Thành nữa. Cũng không liên lạc thư từ. Rời trường Đại Học về nghỉ hè năm đó, tôi đã không trở lại giảng đường. Tôi ở lại quê nhà, chờ ngày định cư sang Mỹ theo diện H.O cùng với ba tôi.

*
*      *

Tôi đến Hoa Kỳ vào một buổi chiều nắng Hạ. Chicago Tháng Sáu, nắng gắt không khác gì nắng quê tôi. Cảm giác hụt hẫng ập đến. Tôi nhớ quê  hương , nhớ mẹ. Tôi viết thư về cố quốc hầu như hàng ngày. Tôi viết cho mẹ, cho các anh chị, cho bạn bè. Mỗi bức thư gởi đi, tôi lại sống trong chờ đợi. Chờ đợi một điều gì tôi không rõ, hình như một niềm an ủi cho tâm hồn cô đơn lạnh lẽo của tôi.

Nhưng rồi, nhiều bức thư được gởi đi, thỉnh thoảng tôi mới nhận được một hồi âm vô cùng ngắn của mẹ. Còn bạn bè, tôi đã hy vọng họ nhận được tin tôi, lập tức sẽ hồi âm ngay cho tôi. Trong những người bạn đó không có Anh. Tôi đã  lầm, chỉ một mình Nga đang học Trung cấp y ngoài Đà  Nẵng hồi âm cho tôi. Những người còn lại, bặt vô âm tín. Tôi từng sống trong dằn vặt. Tôi nghĩ  lá thư gởi về Tòa Soạn Báo Công An Gia Lai đã  không tới tay anh Kông (Người tôi quen trong dịp hộp mặt đồng hương Quãng Ngãi giữa Trường Đại Học Sư  Phạm Quy Nhơn, và Đại Học Đà Lạt,  quê  anh nằm  cạnh  quê  tôi , chỉ  có  điều, nhà  anh ở  miền duyên hải Bình  Thạnh, còn  nhà  tôi  trên miền sơn cước Sơn Lộc ). Nhưng tôi lại không còn cách nào khác hơn để liên lạc với anh. Tôi lo ngại tiếp tục viết thư  về nơi ấy, vô tình tôi gây trở ngại cho công tác của anh trong nghành công  an. Tôi chọn thái độ im lặng.

Còn lá thư về Phú Yên thì sao? Vì sao người anh trai tinh thần của tôi lại không trả lời tôi? Tôi thường đem tấm hình anh tặng tôi với dòng chữ “viết nghiêng” ra xem “Tặng bé Chinh của anh! Anh trai tinh thần,(ký  tên ) Nguyễn Thanh P”. Tôi thương và quí Anh nhiều, nhiều lắm. Tôi nóng lòng, muốn qua bức thư này để biết tin anh, hỏi thăm nhiều người bạn củ, một thời sinh viên gắn bó.  Tôi tiếp tục viết thêm vài lần thư  nữa, và cũng sống trong đợi chờ. Nhưng rồi buồn trong vô vọng. Tôi quả quyết “anh P quên mình thật sự rồi”, thì hẳn trong nhóm bạn thời 3A ấy, không còn ai nhớ đến tên tôi, cả  những bạn  đồng khóa cũng thế  thôi. Tôi quyết định không viết thư làm phiền anh P nữa. Tôi choáng váng trước lối sống khác biệt ở xứ người. Tôi phải vừa học vừa làm nhiều công việc cùng một lúc để mưu sinh. Để tự trang trãi cho việc học của mình, và giúp đỡ gia đình ở Việt Nam. Tôi thất vọng trước những mong chờ không được đáp lại. Tôi sống một cuộc sống gần như là ác mộng.

Lễ Tạ Ơn đầu tiên trên xứ người, tôi ngồi trước đống thiệp tri ân, cầm bút ghi vội, để những tấm thiệp đến kịp người nhận trước ngày Lễ. Tôi chợt nghĩ  đến Anh. Người mà tôi cho là không còn nhớ gì đến tôi. Tôi viết thiệp gởi về cho Anh. Và dĩ  nhiên, nó sẽ chẳng mang một ý nghĩa gì đối với Anh, bởi lẽ người Việt Nam không có ngày Lễ Tạ Ơn, và cánh thiệp này sẽ đến muộn. Tôi viết vội một bức thư  kèm theo. Kể Anh nghe những ngày đầu tôi sống trên đất Mỹ, những cô đơn thất vọng đè  nặng tâm hồn tôi hàng giờ. Tôi cho Anh biết, nhờ Anh làm chứng Chúa trong lần ghé quán trọ thăm tôi cùng với anh bạn của Anh mà tôi tiếp tục đi nhà thờ, tìm kiếm Chúa, và bây giờ tôi là một con chiên ngoan đạo của Chúa, và tôi đang làm thư ký cho ban Thanh Niên tại Hội Thánh CMA Chicago. Tôi khoe với Anh, tôi viết một vở kịch ngắn pha chút hài hước, tổ (4) của tôi đã  thực hiện thành công trong dịp trại Thanh Niên mùa hè vừa qua. Tôi đã dùng tục ngữ, ca dao Việt Nam, tập cho Thanh Niên hò vè đối đáp với nhau về quê hương, về tình yêu rất sôi nổi trong đêm lửa trại. Và tôi cảm ơn Anh đã  gieo Chín trái Thánh Linh vào lòng tôi: Lòng yêu thương – sự vui mừng – bình an – nhịn nhục – nhơn từ – hiền lành – trung tín – mềm mại – và tiết độ. Tôi gởi thư  đi, không chờ đợi hồi âm.  Tôi sợ cảm giác hy vọng để rồi thất vọng.

Trước Giáng sinh một ngày, tôi vui mừng bậc khóc. Tôi nhận được thiệp Giáng Sinh của Anh. Anh viết thư cho tôi bảo rằng “không có gì quí giá cho bằng, cuộc đời theo Chúa của Anh đã  mang một linh hồn có tội trở về với Chúa. Anh vui mừng quá đỗi.” Linh hồn có tội đó là tôi. Anh còn chia sẻ và an ủi tôi nhiều điều. Khiến tâm hồn tôi vui hẳn lên. Kể từ đó, tôi có người để tâm sự. Tôi thường xuyên viết thư về cho Anh hơn.  Dù xa nhau vạn dặm, nhưng tôi cảm nhận Anh rất gần gũi bên tôi, hiểu tôi khiến cho tôi không còn thấy mình cô đơn nữa.  Trong những lần thư tôi viết cho Anh, tôi luôn “tra tấn” Anh về những buồn khổ tôi phải đối diện hằng ngày trên xứ người. Anh hiểu tôi là một con chiên mới trở về với Chúa đang cần được chăm sóc như một đứa trẻ về mặt tâm linh, nên thư  Anh bao giờ cũng giúp tôi yêu Thiên Chúa càng thêm và biết nương cậy nơi Ngài để vượt qua mọi khó khăn trắc trở trong cuộc sống trên vùng đất mới.

Giáng Sinh năm 1997, tôi nhận một tấm thiệp của Anh.  Anh tự tay vẽ lấy bằng nét bút bi màu tím sắc sảo. Tấm thiệp kể một câu chuyện Giáng Sinh. Anh ghi phía sau “người ta bảo mình tự tay vẽ lấy mới thể hiện hết thiện chí”. Giáng Sinh năm đó, lòng tôi vui lắm.

Trước Lễ Phục Sinh năm 1998 khoảng ba tuần, tôi gởi quà về cho Anh, chỉ là những cuốn sách về Đạo Tin Lành. Tôi gởi kèm thật nhiều chiếc bookmark, nhờ Anh tặng cho thanh niên trong Hội Thánh vào dịp Phục Sinh để  họ  dùng đánh dấu trang Kinh Thánh . Tôi vào tiệm sách của Trường Thần Học Moody, nơi tôi đang làm việc bán thời gian, chọn hai chiếc bookmark rất đặt biệt nói về sự hy sinh cao cả của Thiên Chúa dành cho loài người. Một chiếc tôi tặng Anh, chiếc kia tôi kèm theo một dòng chữ “xin Anh hãy tặng chiếc bookmark này cho người con gái Anh yêu thích nhất.”

Lễ Phục Sinh trôi qua hơn hai tuần. Buổi tối trở về nhà từ tiệm Phở Hòa (tôi làm hầu bàn sau giờ học cho đến mười giờ đêm ở đó), tôi lại nhận được thư  Anh. Tôi tranh thủ làm hết việc nhà, may hết đống đồ giấy chị tôi giao phó, khoảng một giờ sáng, tôi ngồi vào bàn học. Tôi mở thư Anh ra xem. Anh gởi thiệp Phục Sinh cho tôi. Lần này thì khác trước. Thiệp Anh mua, không vẽ. Phía trước là dáng dấp thanh lịch của một cô gái trong chiếc áo dài trắng một mình đi lễ, Anh ghi “hiện tại”. Phía sau là đôi “trai tài gái sắc” nắm tay nhau cùng đi đến giáo đường, Anh ghi chú “Tương Lai”. Tôi cười một mình trước ý tưởng ngộ nghĩnh của Anh. Để tấm thiệp sang một bên, tôi mở những trang thư anh viết. Vẫn như những lần thư trước, Anh kể tôi nghe những sinh hoạt của thanh niên trong Hội Thánh Phú Lâm. Giảng luận đôi điều về niềm tin với Thiên Chúa. Anh nói tôi biết, Anh là  con trai của  “Kỳ quan bóng bàn  thế  giới’, bố Lê Văn Tiết.   Và bao giờ Anh cũng kết thúc bằng những lời an ủi, và một lời cầu nguyện ngắn dành cho riêng tôi trên trang giấy. Khác một điều, lần này sau chữ Amen, Anh ghi thêm “Anh đã làm đúng theo lời em căn dặn. Anh gởi tặng chiếc bookmark em đã lặn lội vào trường thần học nổi tiếng Moody ở Hoa Kỳ tìm mua cho người con gái Anh yêu thích nhất. Người con gái ấy là em. Anh yêu em!”  Tôi nhìn xuống chiếc bookmark nằm lặng lẽ trên trang sách Luật Kinh Tế II. Nó rơi xuống có lẽ lúc tôi mở thư Anh mà tôi không để ý.

Tôi bàng hoàng và nhận ra rằng trái tim tôi đang rối tung lên những nhịp đập rối bời. Chiếc bookmark trở lại với chính tôi, điều mà lúc gởi đi tôi không dám hy vọng.

Chicago 1998
(Viết cho cuộc tình buồn!)

(Mối tình đẹp như bài thơ của Diễn Chinh đã bị chết yểu vì Cha và Anh của cô đã trực tiếp buột cô phải cắt đứt liên lạc với chàng sinh viên Kinh Tế, điều mà cô vĩnh viễn không bao giờ chia sẻ cho người mình yêu biết, cô âm thầm chịu đau khổ một mình trước sức ép của cả gia đình, với Trung Thành cô bằng lòng làm một người tình phản bội.)


SONY DSC
Tulip Châu Sa

NHÁNH LAN RỪNG EM TẶNG ANH ĐÂU?

Thỉnh thoảng cuối tuần Mây rời cư xá Đại Học Văn Khoa Đà Lạt, xuống Đức Trọng đi rừng cùng anh trai mình.   Đi rừng là đi đến đúng nơi mà linh hồn Mây muốn đến.  Mây yêu núi rừng hơn bất cứ thứ gì trên đời, bởi núi rừng đã gắn một phần đời của Cha Mẹ Mây với nó.  Có một lần, Mây bắt gặp nhánh phong lan rừng đang khoe nét đẹp kín đáo trên một trảng thông khô tận vùng rừng sâu Cà Nai.  Mây đã vất vả leo lên bẽ nhánh phong lan với cõi lòng vui như trẩy hội.  Sắp tới sinh nhật Anh rồi, mình sẽ tặng Anh một sự ngạc nhiên.

Trở về cư xá sinh viên Đà Lạt với nhánh phong lan rừng.  Mặc kệ mấy đứa bạn cùng phòng cứ đưa ánh mắt ngạc nhiên nhìn khi Mây dành nhiều thời gian cho nhánh lan rừng hơn là lo nghiên cứu học hành.    Nhánh lan rừng mỗi ngày một xinh tươi như mong muốn của Mây.  Còn chỉ vài tuần nữa, nhánh phong lan rừng sẽ cùng Mây khăn gói xuống Sài Gòn, sau đó Mây sẽ trở về Đà Lạt một mình, nhánh phong lan rừng phải ở lại.  Nó ở lại cùng Anh.  Mây đã nghĩ, nhánh phong lan rừng mà Mây lặn lội vào rừng tìm hái làm quà sinh nhật cho Anh, hẳn Anh sẽ trân quí nó lắm, giống như thời ấu thơ, Mây ra đồng gặp cây hoa dại, bứng cả gốc về khoe với Anh, Anh đã yêu quí nó, trồng nó trước cửa sổ phòng Anh.  Anh chăm sóc và nâng niu nó cho đến lúc Anh rời xa quê nhà vào Đại Học.  Anh còn căn dặn Mây “ở nhà em nhớ chăm nó cho Anh nhé!”.

Mây đã xuống Sài Gòn, đi thẳng vào cư xá sinh viên Đại Học Bách Khoa.  Anh Mây không có ở đó, Anh còn ở giảng đường.  Nhóm sinh viên tứ xứ trọ cùng phòng Anh nhốn nháo.  Nhanh như phong cách của đời lính, họ mặc quần áo chỉnh tề vào đón chào Mây như nghinh đón một…thủ trưởng.  Người này chạy đi mượn quạt máy (vì biết Mây từ xứ lạnh xuống), người kia chạy đi tìm nước đá lạnh về cho Mây uống.  Mây chỉ biết đứng như pho tượng nhìn những robot tự điều khiển lấy mình làm những việc mà Mây không hề đòi hỏi.  Rồi Mây rời phòng trọ khi không thể tiếp tục tiếp nhận những ánh mắt nhìn Mây như bị thôi miên.  Mây xuống ghế đá trước “lâu đài tình ái” của những nam sinh viên bách khoa ngồi chờ Anh mình mà đôi tay không rời nhánh phong lan rừng đang khát nước vì cái nóng bức của Sài Gòn.

Trời nghiêng bóng xế, Anh Mây đã về lại cư xá.  Anh em ôm nhau mừng rỡ.  Mây tặng ngay cho Anh nhánh phong lan rừng và hớn hở bảo “Quà sinh nhật cho Anh nè, là lan rừng em theo anh Trường vào Cà Nai hái đó!”  Anh đã rất vui.  Hôn em gái mình thay lời cảm ơn xong, Anh dắt Mây ra quán cơm sinh viên đãi em gái bữa cơm…rừng mừng sinh nhật của mình bằng những món ăn dân dã thật sinh viên.  Hôm đó, Mây đã rất vui và hạnh phúc.  Chia tay Anh, trở về Đà Lạt, Mây lúc nào cũng nhớ đến Anh, nhớ cử chỉ Anh nâng niu nhánh phong lan rừng.  Mây hạnh phúc vì biết Anh trai mình rất yêu thích nó.

Mây trở lại Sài Gòn vào dịp Lễ.  Lần này, Anh chờ Mây ở trước cửa cư xá sinh viên.  Anh định đưa Mây về nhà Dì Tơ để thăm Dì và ở lại đó cuối tuần.  Ra đến hàng nước, Anh dừng lại mua nước mía cho Mây, Anh gặp người bạn đồng hương đang học kế toán tài chính ở Thủ Đức, cô ấy rủ Anh đưa em gái xuống Thủ Đúc chơi thay vì lên An Sương.  Anh chần chừ rồi từ chối.  Riêng Mây hiếu kỳ đòi đi cho bằng được.  Thế là, Anh chìu em gái, họ cùng vào cư xá sinh viên Thủ Đức.  Bước vào phòng của các cô sinh viên có khác.  Mọi thứ ngăn nắp, xinh xắn và thoáng đãng.  Mây đảo mắt nhìn quanh căn phòng dễ thương, đôi mắt cô bỗng hoa lên và dừng hẳn lại ở một góc phòng thật xinh đẹp.  Nó xinh đẹp vì ở góc phòng đó, có một thứ gì trông quen thuộc đang khiến trái tim Mây vỡ òa vì đau đớn, nhưng cũng chính cái quen thuộc ấy lại đang làm tăng vẻ xinh đẹp cho cái góc phòng đáng ghét đó.  Mây đã cố giữ bình tĩnh cho đến khi rời khỏi căn phòng mà Mây dù ghét nó vẫn không thể phủ nhận chủ nhân của nó, cô gái đã mời Anh và Mây ghé thăm đã sắp đặt nó một cách thật xinh xắn, thật dễ thương.

Các cô sinh viên lịch sự tiễn khách đã trở vào phòng trọ, Mây quay sang nhìn Anh trân tráo.  Mây đưa hai tay lên cố tận lực của mình vừa đấm mạnh vào ngực Anh vừa gào trong thất vọng “PHAN CÔNG THÀNH, NHÁNH LAN RỪNG EM TẶNG ANH ĐÂU?”


SONY DSC
Tulip Châu Sa

1.
Ký túc xá vắng tanh, không một bóng người lên xuống. Phải rồi, cuối tháng mà, bọn sinh viên lép xẹp túi tiền. Cuối Tháng Tư  nghỉ lễ, nằm mạp trên giường là thượng sách. Ra đường, đồng nghĩa với “ký sổ”. Châu Sa vẫn còn chút tiền học bổng nàng dành dụm được. Mẹ nàng không là người giàu có. Làm nông trang, buôn bán nhỏ giữa thời buổi đói kém triền miên, tiền kiếm được không đủ nuôi anh em nàng trong đại học. Châu Sa thi thoảng viết thư  (dài lê thê) về Tòa Soạn Nhà chờ nhuận bút. Còn anh nàng thì từ Sài Gòn thường thức trắng bao đêm đắn đo suy nghĩ  để thiết kế một “con số” hình kiến trúc cao ngất ngưỡng gởi về cho ông bà giám đốc xét duyệt, khiến họ lần nào cũng chóng mặt, nhưng…phê chuẩn ngay vì độ chính xác của những con số đã được ngài kỹ sư  kiến trúc tương lai cân nhắc cực kỳ kỹ lưỡng.

Sa chợt nhớ Tết rồi về quê, khi hai anh em nàng đang kể nhau nghe về cuộc sống sinh viên nơi xứ lạ, anh trai nàng hứa rằng “dịp nào đó em xuống Sài Gòn, anh dắt em đi ăn kem ký” (hai chữ “kem ký” nặng thấy mồ lập tức in sâu vào đầu, ai bảo Châu Sa quê mùa thì nàng xin chịu, chứ thật tình Sa chẳng hiểu vì sao anh nàng bảo “kem ký” mà không là “kem ly”? Bụng bảo dạ rằng thà chờ cơ  hội tìm hiểu qua việc quan sát, hơn là hỏi những câu vớ vẩn để tự khoe mình nhà quê). Sa nhảy xuống từ giường tầng chuẩn bị “hành trang”, mang ba lô ra thẳng bến xe Đà Lạt, đón xe đi một mạch xuống Sài Gòn.

Tạm chia tay Thành Phố Sương Mù, Sa đi Saigon, mà đi một mình mới khiếp chứ. Sài Gòn đổi áo thay tên. Cha Mẹ Sa thường bảo thế. Sa chưa từng đặt chân lên mảnh đất Saigon, đây là lần đâu tiên. Sa rất hiểu vì sao nó bị thay tên nhưng cóc hiểu nó đổi áo thế nào. Một cảnh tượng bát nháo hiện ra khi Sa vừa thoát khỏi cực hình bị chèn ép từ chiếc xe khách quá tải. Sa cố che giấu sự lo sợ bằng nét mặt nghiêm trang pha chút bậm trợn trông thơ  ngây đến buồn cười khi nàng bị bao vây bởi một nhóm người làm nghề nghe đến là nghẹt…thở: “xe ôm”. “Về đâu cô?”, Sa nghe câu hỏi tế nhị đó đến hơn chục lần, kèm theo sau là những tiếng chửi thề đáp trả lại thái độ tịnh khẩu của Châu Sa. Nói đúng ra, nàng sợ mình sửa giọng chưa chuẩn, xổ giọng Quãng ra là bị luộc chín như  chơi. Dân quê Sa truyền miệng nhau rằng “vô Saigon mà nói tiếng Quãng là bị thịt ngay”. Sa cứ cuối đầu đi ra khỏi bến xe Văn Thánh. Đón xe lam về ngã tư  Bảy Hiền, rồi từ đó Sa đón xe đò  về Hóc Môn, nơi dì của Sa đang sống. Đây là lộ trình anh trai nàng đã  vẽ, tiền lộ phí cũng được anh cho giá chính xác. Châu Sa cứ thế mà theo nên nàng không hề bị gạt một xu nào.

2.
Bước vào nhà Dì Tơ, Sa sững sờ nhìn thấy anh trai nàng đang ngồi ăn mì…gõ. “Dì mua, còn ít em ăn đi”, người dì khe khẽ “con ăn đi, để dì mua tô khác cho em”. Dì ngồi nhìn hai anh em Sa ăn mì gõ trông giống hệt mẹ của Sa hay nhìn anh chị em Sa ăn khoai thuở họ còn bé. Châu Sa nhìn dì, bắt gặp đôi mắt ấy ngấn lệ. Cả cái dòng lệ ứa của dì Tơ cũng giống hệt mẹ của Sa thuở xưa mỗi khi hai anh em Sa than đói, mẹ Sa chẳng biết làm gì chỉ yên lặng ngồi nhìn cơn đói con mình chậm chạp đi qua cho đến khi anh em Sa thiếp đi trong vòng tay của mẹ. Cái thời bao cấp ấy, đói rách ruột không ai còn muốn nhớ tới làm gì, nhưng bây giờ đột nhiên nó trở lại, khiến tô mì gõ đang thơm ngon bỗng trở nên mặn đắng.

Anh trai nhìn Sa, “xuống mà không báo anh?”, “em không dự tính trước”. “Không thư  về cho mẹ à?”, “anh cũng vậy hả?”. “Ừ, nhưng nhận tiền dì hoài anh ngại”, “em không vì thiếu tiền mà xuống”. Người anh trai nhìn em bằng cái nhìn khó hiểu. (Ở cái lúc này mà Sa tuyên bố “em vì ‘kem ký’ xuống đây” anh trai Sa nhất định mắc nghẹn chứ chẳng phải chơi). Người Dì nghe được hai anh em Sa tâm sự, dì buồn trông thấy. Dì nhỏ nhẹ “nếu thiếu tiền các con cứ nói dì biết, đừng có khiến mẹ bây lo lắng. Dì chẳng giàu có, nhưng giúp được anh em bây tới đâu thì hay tới đó.” Anh em Sa nín lặng, tiếp tục nuốt mì…gõ.

Sài Gòn đêm xuống mát dịu. Nằm bên cạnh dì, Sa nhớ hơi ấm Mẹ nàng hồi còn ở quê, đêm đêm nằm hóng mát trên chiếc giường tre trước sân nhà bên cạnh mẹ, gió ngoài Sông Trà thổi vào mang những câu chuyện thời chiến tranh của mẹ Sa đang kể đi xa, rồi đưa nàng vào giấc ngủ không mộng mị. Châu Sa thủ thỉ với dì, “ước chi chị em con lớn lên lúc nào cũng thương yêu nhau như  dì và mẹ”. Dì thỏ thẻ “mẹ con đáng được thương yêu và kính trọng”, “thì…người mẹ nào chẳng đáng được thương yêu và kính trọng hở dì?”, “ừ! nhưng mẹ con thì… không giống những người mẹ khác, các con không hiểu nổi đâu”. Dì khơi dậy trong Sa sự hiếu kỳ “nghĩa là sao hở dì, bộ..mẹ con có giấu chị em con chuyện chi hả dì?”. Dì thở dài rồi tiếp, “không, các anh chị lớn của con thì còn có thể nhớ và hiểu được, còn hai anh em bây đây sanh sau đẻ muộn có biết gì đâu, dì sợ rằng bây chẳng nhớ gì ráo về… cái khoảng thời gian khổ sở của Mẹ bây đó chớ”. “Dì đã  nói vậy, con xin dì kể con nghe, chuyện gì đa xảy ra cho mẹ con hở dì?”, “ời thì… hồi con chừng hơn tuổi…”

3.
Dì kể, khi Sa được hơn một tuổi, Miền Nam Việt Nam sụp đổ. Miền Bắc vui mừng chiến thắng, họ cho rằng họ đã  giải phóng cho dân tộc Việt Nam và thống nhất đất nước. Cha nàng lý tưởng không thành. Đầu năm 1976, sau một thời gian bị quản thúc, công an đến nhà đọc lệnh bắt Cha nàng đi tù. Họ đọc lệnh bắt Cha nàng đưa vào nơi gọi là “trại cải tạo” vì tội phản bội Tổ Quốc, làm tay sai cho Mỹ. Họ khoác lên những người như  Cha nàng hai chữ Ngụy Quyền. Họ kêu án Cha nàng 3 năm tù “học tập cải tạo”. Giữa buổi chợ đông, thị trấn đông người qua lại, rùng rợn những tiếng hét không giống người “đem chôn sống mẹ nó đi, thứ gian tặc ác ôn, ác bá” làm lấn át một vài giọng nói hiền lành “tội nghiệp cho bầy con nhỏ!”. Họ xô Cha nàng ra khỏi sân nhà. Đôi tay ông bị xiềng chéo sau lưng. Bước chân ông khập khểnh bởi chiếc bao cát hành trang vào tù tuy không nặng, nhưng vừa đủ vướng bận đôi chân. Chị Thảo, chị gái thứ ba của Sa, chạy theo dúi vào tay Cha cô chiếc khăn len khách hàng đặt chị đan vừa xong tối qua. Còn chị Nguyệt, chị Hai của nàng nhét vội vào túi Cha nàng gần trăm bạc, số tiền mà các chị và mẹ nàng thức đêm đan áo và làm bánh dành dụm được. Cha Mẹ nàng không có được một phút để trao đổi với nhau về bất cứ điều gì. Ông chỉ ngoái đầu lại nhắn gởi mọi điều với vợ  bằng ánh mắt. Mẹ nàng cắn chặt môi nhìn chồng rồi nhắm mắt gật đầu. Các anh chị Sa chạy theo gọi Cha kêu khóc. Châu Sa cùng người anh trai kế đứng khép nép bên mẹ nhìn theo hoảng sợ. Cha nàng gọi tên từng đứa một, rồi cố không nghẹn ngào “ngoan nào…đừng khóc nữa… ở nhà nhớ vâng lời và giúp đỡ Mẹ…Cha đi…mai mốt…cha lại về!” Chiếc xe áp tải người đàn ông “phản quốc” mất hút. Tám chị em Sa bàng hoàng ôm chầm lấy Mẹ. Mẹ nàng đã  cố nuốt nước mắt vào tim. Người đàn bà chân yếu tay mềm muốn chồng bà yên tâm mà đi, muốn ông nhìn thấy bà bản lĩnh và kiên cường để chống chọi với bất kỳ tai họa nào mà ông biết trước chế độ mới sẽ giáng xuống cho gia đình vợ con ông. Nhưng giờ  bóng ông vừa khuất, người đàn bà bậc khóc. Bà run rẫy “Mẹ muốn khóc…mẹ thật muốn khóc các con ạ…Cha đi rồi, Cha đã  đi thật rồi các con của mẹ !” Bà đã  khóc trong nỗi đau chia lìa, rồi bà ngất đi trong tiếng gọi bàng hoàng “Mẹ ơi!” của tám đứa con đang nhìn nhau ngơ  ngác.

Không kịp trở tay, sau Tháng Tư  1975, tất cả tài sản của gia đình Sa điều bị tịch thu, căn nhà dưới phố, ruộng đất trên quê, tất cả lập tức trở thành tài sản của nhà nước . Cả mảnh vườn ngoài thị trấn Phước Lộc Đông, Cha nàng trồng nhiều hoa trái mà Mẹ và chị em nàng yêu thích cũng bị tịch thu để họ chia nhau canh tác, còn căn nhà thì đã  bị mìn giật sập ngay sau Tháng Tư, 1975. Đây là căn nhà vườn Cha nàng chắc chiu chăm sóc. Những ngày nghỉ phếp hay cuối tuần Cha thường đưa Mẹ và chị em Sa về đây thư  giãn. Đây cũng là nơi chôn nhau cắt rốn của người đàn ông “phản quốc”. Căn nhà mà chị em Sa một thời sống hạnh phúc yên vui có Cha, có Mẹ, bây giờ trở nên lạnh lẽo hoang tàn với vách đất mái tranh. Cha nàng ra đi, có một điều ông không bao giờ ngờ trước được, Mẹ nàng ở lại cùng tám đứa con đang tuổi ăn, tuổi lớn với đôi bàn tay trắng và nỗi cô đơn, hòa lẫn nỗi sợ hãi đến vô cùng.

Dì Tơ  lúc đó nhìn hoàn cảnh của Mẹ Sa ruột đau như  cắt. Dì và Mẹ Sa lấy chồng cùng quê. Xưa nay, có chuyện buồn phiền khó khăn gì hai chị em cũng giấu ông bà ngoại Sa. Cả các cậu Sa cũng không hề được biết. Nhưng lần này, dì Tơ  chạy về bên ngoại, dì chia sẻ hoàn cảnh của Mẹ Sa với các cậu, các dì. Ông bà ngoại Sa đã  qui tiên trong chiến tranh vì những viên đạn lạc. Các cậu dì của Sa nhanh chóng chia sớt khó khăn của mẹ nàng. Nhưng, các cậu dì của Sa cũng đang sống trong thời buổi bao cấp, họ còn có gia đình riêng đề cưu mang. Sự giúp đỡ ấy cũng chỉ tạm thời. Mẹ của Sa một mình phải đương đầu với cái ăn, cái mặc, cùng tất cả mọi sinh hoạt khác cho đời sống của tám đứa con điều đang ở độ tuổi đến trường, chỉ có hai đứa nhỏ là Sa và người anh kế nàng còn quá bé.

Những người thân quen thông cảm cho hoàn cảnh của Mẹ Sa thì họ ít khi đến gần gia đinh Sa vì sợ  đôi mắt của chính quyền. Để bảo vệ cho mẹ con nàng, những người từng được Cha của Sa nâng đỡ lúc ông còn tại nhiệm trong thời Việt Nam Cộng Hòa, đã  tìm cách âm thầm thăm viếng an ủi và nâng đỡ tinh thần mẹ nàng. Những người vốn ghét “quân Ngụy Quyền” thì hầu như  ngày nào mẹ con Sa cũng phải chạm mặt.

Sau hai tuần Cha nàng bị bắt đi, cả gia đình Sa không biết gì về tin tức của Cha nàng. Người mẹ đã  phó thác việc nhà cho con gái lớn, bà bắt đầu đi dò la tin tức của chồng. Bà rất sợ chồng bà sẽ bị đem đi thủ tiêu. Họ mang chồng bà xuống Quận Đường Sơn Tịnh (từ ngữ Cha Mẹ Sa thường dùng), rồi biệt tin. Bà dò la mãi mới biết chồng bà được chuyển sang nhà lao Hành Tín, huyện Nghĩa Hành. Bà đến gặp chồng một lần ở đó. Rồi sau, họ áp tải chồng bà vào nhà lao Nghĩa Điền, một vùng núi non xa xôi, hẻo lánh của tỉnh Bình Định. Bà trở về với đàn con dại, báo tin Cha của chúng vẫn còn sống. Tám chị em Sa vui mừng rơi nước mắt.  Song, niềm vui tắt ngấm và  bị dìm sâu vào cơn đói không hiện nỗi trên nét mặt trẻ thơ. Cơn đói đang hoành hành trong căn nhà chưa quen thiếu vắng người Cha. Mẹ Sa buồn và khóc. Rất nhiều đêm mẹ Sa không ngủ, thương chồng chịu cảnh tù đày, thương con đang sống trong cảnh thiếu trước hụt sau, tất cả đang ngoài tầm tay của bà. Bà thường ngồi bất động bên ngọn đèn dầu hắc bóng bà vào chiếc vách cô liu.

Con Sông Trà trở thành cứu cánh của Mẹ Sa. Gia đình phía ngoại của Sa có nghề đánh cá trên sông nhưng mẹ Sa chưa một lần chài lưới. Các cậu của nàng đã  tập cho mẹ nàng giăng lưới. Bà học rất nhanh. Giữa thời buổi thị phi, mẹ Sa chạy cơm từng bữa nhờ con Sông Trà hiền lương ấy. Song, không phải mùa nào cũng lưới được cá, chị em Sa luôn bữa đói bữa lưng. Lại nghĩ  đến cảnh Cha nàng đang chịu tù đày, người đàn bà ở tuổi bốn lăm càng lúc càng héo hon.

Khi anh trai kế Châu Sa tới tuổi đến trường, Châu Sa tròn 3 tuổi, mẹ gởi Sa cho người dì bên kia sông. Bà trở vể bàn bạc với các anh chị lớn của Sa, bà đã  quyết định đi theo một số người bạn trong xóm củ, lên miền núi Sơn Hà cắt tranh, làm nương. Làm bất cứ việc gì bà có thể kiếm được tiền để nuôi tám đứa con. Và bà đã  đi lên miền sơn cước, ban ngày khai hoang, làm rẫy, ban đêm giã gạo bằng chày. Tiếng chày khuya của mẹ nàng không ác nổi tiếng cười đùa của vợ chồng con cái chủ nhà, nên tiếng chày cứ âm thầm, âm thầm đơn độc như  nỗi nhọc nhằn lặng lẽ của Mẹ nàng đang tuông đổ. Đổi giọt mồ hôi và nước mắt của bà bằng chén cơm và một ít lúa gạo khiêm tốn từng ngày. Mỗi tháng một lần, bà quảy bộ hơn ba mươi cây số từ  Sơn Hà ngược xuống Sơn Lộc những gạo, khoai, đậu…nặng trĩu đôi vai cứu đói đàn con.

Bà đi, người chị cả đã  thay mẹ hướng dẫn các em đi làm công lấy điểm, cái thời buổi hợp tác xã khắc khổ vô cùng, lặn lội ngày công được ghi dăm ba điểm, gom góp cuối năm cũng chẳng là bao, xem như  làm không công cho thổ địa, nhưng người người, nhà nhà  vẫn phải hì hục mà làm. Các chị gái của Sa quen có kẻ hầu người hạ, họ chưa từng chân lấm tay bùn, nhưng bây giờ lại thích nghi rất nhanh với cảnh ruộng nương. Chị Hai của Châu Sa ở nhà nhận đan áo, thiêu thùa và làm bánh. Không có mẹ, người chị cả phải đùm bọc và bảo vệ cho các em. Họ cùng nhau vuợt qua những cơn đói luôn chờ chực hàng ngày trong nỗi đau thương cha nhớ mẹ thiêu đốt họ từng khoảnh khắc.

4.
“Con ngủ rồi à?” Châu Sa nằm im lặng. Dì Tơ  nghĩ  cô cháu gái mình đã  ngủ say, Dì tạm ngưng câu chuyện, buông mùng, tắt cái quạt máy đang hướng về phía cô cháu gái rồi đi dần vào giấc ngủ dưới khí trời mát rượi của Đêm Sài Gòn Tháng Tư.

Châu Sa đưa tay quẹt nước mắt. Làm sao mà ngủ được. Sa bắt đầu nhớ quay quắt những tháng ngày cuộc sống đã  sơn quết lên tuổi thơ  cô một bức tranh cùng cực. Khi Châu Sa tới tuổi đến trường, nàng được trở về bên các anh chị của nàng. Cũng là lúc Mẹ nàng giã từ miền Sơn Cước về lại miền xuôi, làm tất cả những công việc gì bà có thể làm để nuôi con và thăm nuôi chồng trong trại cải tạo. Sa đã chứng kiến từng ngày mảnh đời khắc khổ của mẹ. Đứng nhìn từng nỗi đau như những lằn roi khốc liệt của nhiều định kiến xã hội lúc đó quất lên tuổi xuân thì của các chị gái nàng hiện ra qua dòng nước mắt của họ. Cho đến lúc trưởng thành Châu Sa mới thấu hiểu sâu sắc vì sao nước mắt các chị nàng rơi trong ngày Vu Qui. Những giọt nước mắt kia rơi không phải vì vui mừng hay chỉ đơn thuần ngậm ngùi khi phải xa mẹ, xa em, mà những giọt nước mắt ấy rơi để đào sâu chôn chặt những mối tình không được quyền tồn tại. Hay nói khác đi, lấy chồng là cách mà các chị nàng chính thức để tang cho những mối tình với các chàng lính không quân hay biệt động thời Việt Nam Cộng Hòa, mà các chàng trai này đang bị giam cầm trong “tù cải tạo” tận ngoài phương Bắc xa xôi không biết ngày về. Vu Qui là để quên một điều gì đó được các chị gái nàng ghi khắc suốt đời. Kỳ thực nàng không tài nào hiểu được, vì sao cho đến bây giờ những mối tình các chị nàng cố tìm quên thì nó vẫn tồn tại trong trái tim thầm lén chịu đựng của họ, càng lúc dường như càng tha thiết vô cùng.

Chẳng phải như lúc “tòa án nhân dân” của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đọc lệnh kêu án ba năm để bắt Cha nàng đi “học tập cải tạo”, Cha nàng đã trở về sau tám năm bị giam cầm, nhưng tư tưởng của ông không hề “được” cải tạo. Người đàn ông yêu nước, thương nòi đã trở về từ địa ngục trần gian. Chính thức bước ra khỏi cái nhà tù nhỏ bé nhưng kinh khủng để cùng với vợ con tiếp tục những tháng ngày khắc khổ trong một nhà tù tầm cỡ hơn, cùng chia sẻ cuộc sống đang bao trùm bằng trăm nỗi nhọc nhằn lên đầu dân tộc trong cái thời buổi quá độ đang ì ạch kéo cả nước đi lên (mà thực tế là đi xuống) cái gọi là Chủ Nghĩa Xã Hội.

Những hồi ức u buồn đã đưa Châu Sa vào giấc ngủ thiếu hẳn sự bình yên.

5.
Buổi sáng Sài Gòn náo nhiệt. Rang rảng tiếng rao lanh lảnh của đội ngũ hùng hậu những người bán dạo. Châu Sa ngồi trước hè, gương mặt lặng lẽ đặt trên đôi bàn tay thon thon mềm mại. Nàng lặng lẽ như một pho tượng bị bỏ quên trong một lòng phố tất bật. Nàng đang hình dung từng khung cảnh nhẹ nhàng êm ái của quê hương xứ Quảng. Ở nơi đó có Mẹ nàng đang ngồi làm bánh, thỉnh thoảng bà đưa tay xua đuổi đàn chim sẻ bướng bỉnh như đứa con gái út của bà hay sà xuống mổ những chiếc bánh tráng tạo thành hình những chiếc lồng đèn ông sao khiến bà tức chết đi được. Ở đó, có Cha nàng đang tỉa những chậu kiểng trước nhà vào buổi sáng, đôi khi uống trà với vài người bạn đến thăm, rồi khoe “giống hoa này con Út tôi mang về từ Đà Lạt.” Và ở đó, có chị của nàng đang nhịp nhàng cắt những viên ngói sắc sảo đem ra phơi nắng ngoài sân Xưởng Ngói. Ở đó, có tuổi thơ nàng còn bay nhảy trên sông Trà Khúc, những cánh diều tuổi thơ được tự do bay trên bến bãi mỗi chiều về…Châu Sa miên mang đến không nhớ mình đang ngồi giữa buổi sáng của Sài Gòn thật rộn rã, thật xôn xao…

Tạm biệt ký túc xá Bách Khoa vào buổi trưa hôm sau. Tạm biệt người anh trai yêu quí của Sa dưới hàng cây phủ đầy bóng mát giữa nắng trưa Sài Gòn. Tạm biệt Sài Gòn Tháng Tư ồn ào và giả tạo, Châu Sa trở về Đà Lạt lặng lẽ của bình yên. Dọc đường, nàng cười một mình khi nhớ  đến điều hứa hẹn của anh trai đãi nàng “kem ký”. Châu Sa thoáng nghĩ, “ăn kem ký ở quê mình vào những đêm hè sẽ rất tuyệt”. Sa thả hồn vào bức tranh quê hương Quãng Ngãi, rồi mong sao hè đến sớm.

Khi cơn buồn ngủ thỏ thẻ rủ rê bên tai, Châu Sa buông tất cả và chạy rong theo nó. Trong giấc ngủ lúc mơ lúc tỉnh theo vũ điệu khập khễnh của chiếc xe khách đang chạy một cách bất bình tĩnh trên quốc lộ 20, Châu Sa thấy mùa hè năm nay đến sớm, Anh trai nàng từ Sài Gòn lên Đà Lạt đón em gái.  Hai anh em cùng đón xe về quê. Rồi vào một đêm hè, hai anh em đèo nhau trên chiếc xe đạp củ kỷ xuống phố Quãng ăn “kem ký” trên đường Quang Trung. Chao ôi! cái mùi vị của kem sầu riêng bay hương ngào ngạc đến là mê hoặc…

(CƯ XÁ SINH VIÊN ĐÀ LẠT, ‘92)